Nhất là với những bài thơ được chính tác giả đọc trong một đêm thơ thời chiến, sau đó được chép tay, chuyền từ người nọ sang người kia. Bầy ong trong đêm sâu là một trong những bài thơ đã đi vào “bộ nhớ” của bao lớp sinh viên nói chung và sinh viên văn khoa nói riêng thời ấy. Giờ đây, khi bài thơ được chọn làm tựa đề, được in trên trang đầu của tập thơ đã khiến chúng ta rưng rưng nhớ lại bao kỷ niệm không dễ quên của những năm tháng chiến tranh khốc liệt, nhớ lại hiện thực tâm trạng của một thời mà Lưu Quang Vũ chưa có dịp được giải bày, công bố...
Để giành món quà tặng Vũ nhân dịp anh tròn 45 tuổi, gia đình và bạn bè đã công bố di cảo thơ của Vũ trong khoảng những năm 1970 - 1975. Đây không phải chỉ là mong ước của gia đình Vũ mà còn là sự chờ đợi của người đọc. Từ lâu nay, công chúng không chỉ muốn thỏa mãn trước những vở kịch nổi tiếng của anh mà còn muốn được thỏa mãn đối với những bài thơ chưa được "trình làng" của Vũ. Dường như ngay cả với Lưu Quang Vũ, niềm đam mê thơ ca còn lớn hơn cả kịch trường, cho dù ở lĩnh vực này, anh đã gặt hái những thành công không nhỏ.
So với các bạn thơ cùng lứa; xuất hiện vào giữa những năm 60 cho đến nay, Lưu Quang Vũ là người được in thơ ít nhất. Nhưng "quý hồ tinh bất quý hồ đa", chỉ nửa tập thơ in chung với Bằng Việt, Hương Cây của Vũ đã tạo nên cốt cách thi sĩ nơi anh, và ngay từ buổi ấy, nhà thơ đã gây được ấn tượng không phai mờ trong tâm khảm người đọc.
Có thể nói từ Hương Cây (1968), Mây trắng của đời tôi (1989) đến Bầy ong trong đêm sâu, thơ của Vũ lôi cuốn người đọc không ở sự chau chuốt lời lẽ, ngôn từ với những kỹ xảo, ngón nghề mà chính ở một hồn thơ đắm đuối mà chân thành, giản dị mà nồng nàn, da diết. Anh làm thơ như một sự ký thác, gửi gắm, như một sự tự bộc lộ những gì đã có trong cõi lòng anh với những "tin yêu cuộc đời theo cách của tôi”, rất Lưu Quang Vũ. Giữa dòng thơ chống Mỹ ngày ấy, không theo quy ước chung, Vũ lặng lẽ tìm "tín ngưỡng" riêng cho thơ mình. Ngòi bút anh hướng vào bên trong, khám phá nội tâm, khai thác triệt để "cái tôi" của chính mình: "Tâm hồn anh dằn vặt cuộc đời anh". "Anh xé lòng anh những đêm mất ngủ", "Anh khờ dại anh tự làm mình khổ", “Có những lúc tâm hồn anh rách nát”...
Mấy năm gần đây trong không khí dân chủ hóa và đổi mới nền văn học, các nhà thơ mới có điều kiện thể hiện nỗi buồn và những bi kịch của nội tâm, của cuộc đời thì ngay từ ngày ấy, Lưu Quang Vũ đã tự cấp "giấy phép" cho mình "quyền được buồn" của thi sĩ. Anh là người có khả năng nhạy cảm cao độ với nỗi buồn đau của chính mình và của cả kiếp người, với những "viễn vông, cay đắng, u buồn", với "Nỗi buồn chân thành đời chẳng nhận hay sao", "nhưng từ đáy nỗi buồn tôi thăm thẳm!", "Bị lừa dối, bị lăng nhục; rách rưới bơ phờ, cô độc"... Có lúc buồn đến nỗi tự trào: "Anh như thằng Bờm, chẳng thiết trâu bò chẳng thiết lim; chỉ nhận nắm xôi cười ngặt nghẽo".
Trong thơ của thời kỳ này, Lưu Quang Vũ không che dấu những tai ương, những bất hạnh ập lên số phận mình. Chông chênh trên đường công danh, bất hạnh trong đời tư, Vũ rơi vào tình thế cô độc, bất ổn. Giữa hoàn cảnh sôi động, hào hùng lúc ấy, anh không dễ tìm được tiếng nói đồng cảm của người đương thời và đã có lúc anh cảm thấy tuyệt vọng: “Lòng tốt ai cần đến”, “Thơ không đâu dùng”, “Quen thất vọng tôi hồ nghi mọi chuyện”. Nhưng cũng từ những nỗi buồn của cảnh ngộ cá thể, của bi kịch nội tâm, Vũ đã nhận thức được đến tận cùng con người mình, viết ra những “dòng thơ dằng xé, dày vò”. Suy cho cùng, nỗi đau đớn, nỗi buồn của Vũ trong một lúc nào đó lại là sự an ủi nỗi lòng con người. Có thể nói trong ngõ ngách của mỗi tâm trạng cá nhân, dường như ai đó đều cảm thấy có chút nỗi niềm của mình trong những câu thơ Vũ:
Tôi là đứa con cô đơn ngay từ khi ngồi cạnh mẹ
Thằng bé lẻ loi giữa lớp học ồn ào
Bàn chân hồ nghi giữa đường phố lao xao.
So với các bạn cùng thời, Lưu Quang Vũ là người trẻ hơn cả nhưng tâm hồn anh lại có phần già dặn, từng trải bởi cảnh ngộ riêng, bởi cái "đa đoan phức tạp" của anh. Ẩn chứa bên trong cái thể chất thanh xuân của Vũ là một trái tim trải đời, đầy ưu tư, dằn vặt. Anh luôn luôn chiêm nghiệm, nghiền ngẫm con người và sự đời cả phần ánh sáng lẫn phần khuất tối, thậm chí ở cả phần dễ bị người ta lướt qua bằng cái nhìn đầy phát hiện, vừa tỉnh táo khách quan, vừa ngậm ngùi thương cảm (Những tuổi thơ, Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa, Quán cà phê ngoại ô, Ngã tư tháng chạp, Viết lại một bài thơ Hà Nội, Ghi vội đêm 1972...) Ngay cả đến tình yêu (chiếm một vị trí đáng kể trong thơ Lưu Quang Vũ) đã có lúc đem lại cho anh cảm giác: "Anh trẻ lại, đời chẳng còn rắc rối", "Anh còn em ta sống lại cuộc đời"; nhưng để có được hạnh phúc ấy anh cũng đã phải nếm trải không ít buồn bã, xót xa, đau đớn đến tội nghiệp: "Anh là con ong bay giữa trời lận đận; Trời đêm dài chẳng có một ngôi sao", "Những gì em cần, anh chẳng có; Em không màng những ngọn gió anh trao"...
Chính nỗi đau tâm hồn, sự đắng cay nghiệt ngã của số phận đã giúp anh sáng tạo những câu thơ đích thực với nghệ thuật đằm chín cùng thời gian; sống trong lòng bạn đọc. Vượt lên trên hoàn cảnh, lấy nghệ thuật làm cứu cánh, tập thơ của Vũ có thể với hôm qua còn phải bàn bạc nhưng với hôm nay thì đã có thể được khẳng định và tồn tại. Đọc những bài thơ nói về "cái tuổi trẻ ồn ào mà cay cực" của Vũ, người đọc nhận thấy được sự thống nhất, biện chứng trong tâm hồn thi sĩ ấy. Năm tháng qua đi, Vũ cũng đã vĩnh biệt chúng ta tròn 5 năm. Ở cõi xa xăm kia, Vũ có linh cảm thấy những câu thơ đang hiện lên trang sách mở ra của anh, sẽ giúp người đọc hiểu thêm và thông cảm hơn với nỗi niềm của chàng thi sĩ một thời thơ ấy.
B.T.
(TCSH59/01-1994)
NGUYỄN BÙI VỢI"Chống tham ô lãng phí" là một bài thơ về đề tài chính trị xã hội, một vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nó được viết ra năm 1956 khi miền Bắc sau chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ đang hàn gắn vết thương chiến tranh, khai hoang, phục hoá, tìm công ăn việc làm...
NGUYỄN DƯƠNG CÔNMuốn tiếp cận với văn hoá văn học, trước hết phải xác định cơ bản đúng đắn thế nào là văn hoá và thế nào là văn học.
HOÀNG SĨ NGUYÊN Hồi học Đại học, tôi và mấy đứa bạn phải đi bộ năm, sáu cây số vòng quanh các hiệu sách thành phố để tìm mua cho được cuốn "Thơ và mấy vần đề trong thơ Việt nam hiện đại" (Hà Minh Đức, NXB KHXH, 1994).
TRẦN ĐÌNH SỬTrong cuốn sách dịch, đúng hơn là trích dịch Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki của M.M Bakhtin, chúng tôi đã giới thiệu những lời đánh giá quan trọng của các học giả thế kỷ XX đối với Bakhtin: "Bakhtin, nhà lý luận văn học lớn nhất của thế kỷ XX" (TS. Todorov). "Bakhtin, người giữ cho các khoa học nhân văn đối tượng riêng của chúng" (X.X. Avêzinxép), "Bakhtin, người đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về ngôn từ tiểu thuyết" (A. Tritrêrin)...
PHONG LÊViệc xác định một đề tài nghiên cứu cho bất cứ ai bước vào con đường khoa học, theo tôi là động tác quan trọng đầu tiên, có ý nghĩa quyết định, như là một ô cửa, một đột phá khẩu trổ ra cái bầu trời, hoặc quang đãng hoặc vần vụ mưa gió, rồi anh ta sẽ được bay lượn ở trong đó.
ĐỖ LAI THUÝNgàn mây tràng giang buồn muôn đời Nguyễn Xuân Sanh
VŨ QUẦN PHƯƠNGTên thật cũng là bút danh, sinh ngày 18-9-1949 tại quê gốc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình.
TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một số lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60-70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.
HỒ TIỂU NGỌCLTS: Nhân dịp kỷ niệm 53 năm Quốc khánh nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài thơ sau đây của tác giả Đoàn Duy Thành. Bài thơ thể hiện tình hữu nghị cao quý của nhân dân hai nước Việt - Trung.
HỒNG NHU (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.
THÁI BÁ LỢIMột nhà văn lớp đàn anh của tôi tâm sự: Chỉ có miền Trung mới có văn xuôi thôi, vì ở đây từ đất đai, khí hậu con người luôn luôn được thử thách, được cọ xát, được tôi rèn, với hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mới bật ra tư tưởng, mà văn xuôi là tư tưởng.
NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Không nhà thơ nào muốn lặp lại những gì thơ ca đã có, kể cả lặp lại chính mình. Đi tìm cái lạ cái mới, chính là bản chất của sáng tạo.
NGUYỄN QUANG HÀHình như trong máu của người Việt đều có một chút máu thi nhân. Cho nên thấy ai cũng mê thơ cả. Chả thế mà tít mãi vùng hẻo lánh, các bà mẹ ru con bằng Kiều, bằng ca dao. Lời ru giống như một sự ngẫu hứng, cứ thế tự trào ra từ tâm hồn mình.
TRẦN THANH ĐẠMNgày13 tháng 06 năm 2002 vừa qua là dịp kỷ niệm lần thứ 75 ngày mất của một trong những nhà yêu nước và cách mạng tiền bối, một nhà giáo dục lớn của nước ta đầu thế kỷ XX: chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927).
LÊ HỒNG SÂM Cách đây mươi năm, trong một cuộc phỏng vấn thân mật, chị Lộc Phương Thuỷ có hỏi tôi về những kỷ niệm đáng nhớ, liên quan đến văn học, nhất là văn học Pháp. Tôi đã kể cho chị Thuỷ mẩu chuyện nhỏ mà hôm nay tôi xin thuật lại, dưới tiêu đề phù hợp với một trong hai nội dung của hội thảo Fantine, Cosette và chiếc đòn gánh Việt .
HỒNG NHULTS: Những cuộc trao đổi mang tính nghề nghiệp về thơ ở tầm "vĩ mô" dường như đang co lại ở tầm "vi mô". Các ý kiến khác nhau, thậm chí ngược nhau trong tranh luận học thuật là chuyện bình thường. Song, sẽ không bình thường khi công cuộc đổi mới của Đảng đã bước vào nền kinh tế tri thức mà vẫn còn những "tư duy thơ" theo cơ chế suy diễn với những mục đích gì đó, ngoài thơ.Nhằm rộng đường dư luận, Sông Hương xin được trao đổi lại một trường hợp cụ thể sau đây.
MAI VĂN HOANỞ Huế tôi đã có nghe bạn bè nói sơ qua về cuộc hội thảo tập thơ "Đám mây lơ lửng" của Hoàng Vũ Thuật, tác phẩm đoạt giải A giải thưởng VH-NT Lưu Trọng Lư lần thứ hai (1996 - 2000) do Hội Văn nghệ Quảng Bình tổ chức.
ĐÀO DUY HIỆP“Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust (1871-1922) là một tiểu thuyết đồ sộ gồm bảy tập với trên dưới ba nghìn trang ngày nay đã được độc giả toàn thế giới say sưa đón đọc và được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đánh giá rất cao.
THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.
HOÀNG QUẢNG UYÊNTôi yêu mến và quý trọng những câu thơ như là "không thơ" của chị:Câu thơ nước chảy bèo trôi/ Vẫn nghiêng về phía phận đời khổ đau. (Hương cỏ)