Đường xưa đi học - bột màu của Hoàng Đăng Nhuận
Nhịp hai Căn phòng ấy Có những ô cửa sổ Nhìn xuống cây sấu đội nắng suốt mùa hè Đêm khuya con nghe chuyến tàu điện rung chuông về ngoại ô Thành phố lo toan tháng năm Trên những mặt tiền màu vôi cũ Mỗi lần tôi đến thăm Phải băng qua một khu phố đông Ngang qua cửa những căn phòng khác Căn phòng ấy Không có gì đặc biệt Chị ấy còn rất trẻ Dù đã qua gần hết tuổi thanh xuân Mỗi lần tôi đến thăm Chị mời tôi một chén trà thơm Chào tôi bằng nụ cười lặng lẽ Ít khi chị nói với tôi điều gì Hình như lâu rồi nên cũng quen đi Chị làm lụng không nghỉ tay Với nụ cười lặng im như thế Người mẹ ấy Cũng như mẹ tôi Lòng vẫn còn đôi nơi Ngoài nầy - trong ấy Mỗi lần tôi đến thăm Nhớ con trai Mẹ cứ bảo tôi ngồi lâu thêm mãi Mấy mươi năm đất nước rất dài Đuôi mắt mẹ cười Hằn những dấu chân chim Ôi người mẹ già, người mẹ già Buổi chiều nghe qua cửa sổ Tiếng ồn người về dưới phố Hỏi tôi hoài về một chiến trường xa Căn phòng ấy Một đứa bé đã lớn lên Tuổi ấu thơ nó đội mũ rơm đến trường Trong trí nhớ, những tên làng xa lắc Như những đứa bé sinh ra ngày đất nước tôi đánh giặc Nó lớn lên bằng tuổi chiến tranh Chưa bao giờ biết mặt cha Nó vẫn đòi đi theo bố Chưa biết miền Nam bao xa Nó vẫn đòi đi đánh Mỹ Dù đôi khi có người phàn nàn Vì quả bóng nó đá qua cửa sổ Tôi vẫn thấy nó là đứa bé ngoan Nó gần tôi như một người đồng chí nhỏ Căn phòng ấy Có tủ sách đã đóng lại từ lâu Bài hát tình yêu dừng lại giữa chương đầu Còn âm hưởng trên chiếc ghế ngồi bỏ trống Có chiếc đồng hồ cũ treo trên tường Con cu cu nhỏ bé siêng năng Ngẩng cổ gọi thời gian sâu thẳm Căn phòng ấy tôi đến thăm Nó giống như những căn phòng khác Những ô cửa - ghế bàn - tủ sách Đơn sơ những khuôn mặt người Tất cả bấy nhiêu đó thôi Là Đất - nước trong lòng tôi chân thật 2 Người đi qua một cuộc chiến tranh Cỏ đã rậm trên hầm bom hè phố Người về soi mặt trên hồ Gươm Bỗng gặp lại sắc trời xanh vạn cổ Nhưng khi trên thân thể Còn một vết thương chưa lành Máu vẫn dồn về nơi đó Chưa bao giờ người từ chối hy sinh TRÁI TIM KHÔNG ĐẬP NỖI RIÊNG CHO MÌNH Hà Nội xây nhà bên đê Hà Nội còn ngoài sông núi Hà Nội cười vui nắng mới Hà Nội chờ mong đêm dài TRÁI TIM VẪN ĐẬP NHỊP HAI. Quảng Trị, 1974 (9/10-84) |
TRẦN HOÀNG PHỐ
HẢI BẰNG
PHẠM TẤN HẦUKhúc hát nhỏ gởi thành phố của tôi
Võ Quê sinh năm 1948 tại An Truyền, Hương Phú, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Võ Quê làm thơ từ năm 16 tuổi và có thơ in trên các sách báo văn nghệ tiến bộ ở miền Nam từ năm 1968. Nguyên là trưởng ban báo chí Tổng hội sinh viên Huế, anh đã bị ngụy quyền bắt giam ở Côn Đảo năm 72 và năm 73 được thả, thoát ly lên chiến khu. Anh là một nhà thơ được quần chúng yêu mến trong phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh miền Nam.
TRẦN HOÀNG PHỐ Để tưởng nhớ nhà thơ Ngô Kha và Trần Quang Long đã hy sinh
TRẦN VÀNG SAO
LÊ VĂN NGĂN
VĨNH NGUYÊNDòng sông cảm nhận
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGCà phê với bạn thơ ở Sài gòn
FAN TUẤN ANHĐoản khúc số 56
LÂM THỊ MỸ DẠThiên thạch
THÁI NGỌC SANHà Nội của tôi
HỒNG NHUNhặt được ở sổ tay 1
PHẠM TẤN HẦU Để nhớ TNS“tiếng thét trong bóng đêm mới mẻ, chỉ cần hát và chỉ cần khóc” J.BRODSKY
NGUYỄN KHẮC THẠCHNgón trăng1
LTS: Tại nhà thờ họ Lê của làng Mỹ Lợi, huyện Phú Lộc, vào tháng 10 năm 1950 đã diễn ra Hội nghị Họp ban thành lập Hội Văn nghệ Thừa Thiên, đánh dấu sự ra đời sớm nhất của một hội văn nghệ địa phương trong cả nước. Kỷ niệm 60 năm sự kiện đầy thiêng liêng và ý nghĩa ấy, những ngày tháng Tám, Trại sáng tác Về Nguồn đã được Hội LH VHNT tổ chức ngay tại mảnh đất Mỹ Lợi.
LTS: Đào Tấn (1845-1907) nhà thơ, nghệ sĩ tuồng xuất sắc. Ông đã ở Huế nhiều năm, viết nhiều vở tuồng có giá trị trong văn học sử Việt Nam. Cảnh sắc thiên nhiên và con người Huế cũng là nguồn cảm hứng của thơ, từ của ông. Chúng tôi xin giới thiệu một số thơ, từ của Đào Tấn viết về miền đất sông Hương qua bản dịch của nhà nghiên cứu tuồng Vũ Ngọc Liễn.
LÊ VĨNH THÁIKhi chúng ta không là của nhau
LTS: Ngô Minh sinh ngày 10-9-1949 tại An Thủy, Quảng Bình. Bắt đầu in thơ từ năm 1975. Được giải thưởng thơ hay báo Nhân dân 1978…Ngô Minh đã từng là bộ đội chiến đấu ở chiến trường miền Nam nhiều năm, vì thế thơ anh viết về nhiều đề tài cuộc sống, nhưng vẫn mang đầy hơi thở của một người lính: sâu đằm, bỏng cháy…