Nháp, những vần thơ đêm trắng bạch

09:24 19/01/2010
LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)

Ảnh: vanchuongviet.org

Nháp, ở đây không hàm nghĩa một bản thảo những con chữ gieo mau gặt vội, vung vãi mua vui, vì Ngọc Tuyết thừa biết sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện (Nam Cao). Phải chăng Nháp của Ngọc Tuyết có thể hiểu theo nghĩa là bản thảo chính cuộc đời nữ sĩ với những độc thoại nội tâm, với những trở trăn trang nhật ký, với những giấc mơ khoắt khuya tàn canh rụng.

Tôi đọc Nháp với tâm trạng của người cô đơn ngồi đếm diềm diềm sao lặn sao mọc ở chân trời và hiểu ra tác giả cũng mông quạnh đêm và lấy Thơ làm người thư kí chân thành của trái tim (Đuybralay). Này đây là nét chì tẩy xóa những cuộc tình, là trang giấy vuốt lại, chấm bút viết ngày… tháng… năm…

Vạch nét chì lên vầng trăng 16 /nháp /những cuộc tình trên trang đời tẩy - xoá/ rách lòng trang giấy trắng (Nháp)

Những lòng giấy trắng với chùm chùm thủy ba ngầm róc rách lặng đêm Dự cảm, ngày cứ phi buồn vui.

Trăng khuyết & trăng tròn, trăng không xanh ngờm ngợp những ngày con gái, trăng hiện hữu như lưỡi hái cắt ngọt tình đau và đêm bỗng lịch kịch kêu vang, không phải tiếng thạch sùng gọi bạn, mà tiếng thảng thốt từng mảng tình lem nhem cháy để đêm một sững sờ, thùng rác:

Sững sờ đêm/ em ngồi nhặt nhạnh/ từng mảnh - từng mảnh vỡ cỏn con vết xước/ vứt vào thùng rác.

Ngọc Tuyết đã bước chân qua phương thức cổ điển lấy cảnh ngụ tình; không dừng lại ở việc tả vành trăng, màu trăng, chất mộng mị trăng nhưng soi vào tâm thức thời đại để nhận ra trăng lưỡi hái, những vết xước. Cho nên, đêm còn là đêm của bản năng tồn tại với sâu hốc hác khuôn mặt để rồi viết & viết như mê mụ từng mẫu kí ức, để trôi đi canh tàn khuya nhặt lê thê tóc:

hắt hơi như bóng ma nhập lịm vào ký ức
ngủ mê trên văn bản/ lê thê cuộc đời
(Khuôn mặt ngày)

Chọn đêm để viết và dựng đêm thành biểu tượng nỗi cô đơn rách rát của thân phận, thơ Ngọc Tuyết như đã sinh ra từ những giọt nước mắt cay đắng. (Raxun Gamzatôp). Cho nên, chúng ta không lạ khi mà mưa được lập lại với tần số cao trong tập, song hành với đêm như giọt lệ long lanh, mưa & mưa:

mưa chiều vỡ nước, trang kinh gói mưa nhỏ giọt bốn mùa, mưa đầy lên nửa khuya, mưa rồi cuồng vỡ, giọt mưa lậm vào đáy mắt, mưa khắc màu rêu, mưa xoay nắng tít…

Nhưng cuối cùng, cay đắng & nước mắt, nỗi âm ỉ buồn của Ngọc Tuyết là gì? Nỗi buồn của Ngọc Tuyết gắn dính với một chữ tình, những mảnh vỡ kí ức, mà thê thiết mà rụng rời trên Máng xối đêm.

có một thứ xác ướp của quá khứ cần chôn vùi/ ùa vọng những âm thanh ngủ mê/ khảo cổ trong đống đổ nát/ níu lại bóng mình/ lẩy bẩy/ gọi… Khép cửa lại với mình, Người đàn bà Ngọc Tuyết đánh mất thế giới quen thuộc, chỉ còn quá khứ phỉnh phờ và ngôn từ giăng bẫy. Rồi mùa đông, mùi nhựa ẩm từng milimet ký ức/ sâu bệnh lúc nhúc/ bàn tay những đường gân xanh mang theo cơn bão tháng mười (Ngày chủ nhật trên ô cửa). Ngày mai chỉ là giấc mơ cuồng hoan trên đỉnh trời tưởng tượng, có chăng là lầm lụi hát ru mình, ru người:

Ngày mai của người đàn bà băng qua vùng mê muội vượt qua đỉnh cuồng hoan
ngày mai
    ngày mai
        nhiều hơn ngày mai nữa
người đàn bà lầm lụi hát ru người
(dự cảm)

Câu thơ bậc thang hóa thành những nấc đời đi lên khó nhọc và ta nghe ngày những diễn đài ê hề, những khai phương chóng mặt, lổn nhổn dấu sẹo chằng chịt đóng lên thân phận đàn bà với những cái neo sắt thừng xích nghĩa vụ, chuyên chính, phẩm giá, tiết trinh… Có lẽ đôi khi Ngọc Tuyết cũng muốn chùm chiếc khăn đen Trung Đông, mặc màu tang chế để an táng hôn nhân & những cuộc tình.

Thơ, đó là những đêm trắng và những đôi môi của dục vọng. Lawrence Ferlinghetti đã rất có lý khi tô son đỏ những đôi môi dục vọng của thơ bám riết xoắt xuýt những giấc mơ, những cơn co thắt tình và cả những nổi loạn tính dục như một tuyên ngôn nữ quyền luận của thời hiện đại:

Ngày nguyệt thực thiên đường động kinh bản năng/ em giải mã câu thơ liếm mép bờ siêu thực/ ngôn ngữ bức bách thể lời/ ôm tư duy và giấc mơ bay vào vùng sương mù/ triết học em lũng đáy/ bởi ống dẫn lao vào giáo điều tam tùng tứ đức/ điêu đứng em (Trong cơn co thắt vũ trụ)

Đó là ngày nguyệt thực với cơn động kinh bản năng, là triết học em lũng đáy, đem giáo điều Khổng Mạnh đóng bao bì cất vào Bảo tàng viện. Ý thức này bắt nguồn từ niềm hoài nghi những đại tự sự, là một đối kháng với lễ giáo trói buộc… không mới đối với thế hệ 7-8x trong thời buổi hiện đại nhưng là cái mũ tư duy khá sặc sỡ của người Phụ nữ đã buớc vào ngũ thập.

Nháp ít nhiều đã mang cảm thức hậu hiện đại, phản ánh ít nhiều nhịp sống hôm nay với những tâm bệnh, nỗi khát tự do, với một cái tôi (ego) chủ động làm chủ và giải quyết những thúc bách nhân sinh chứ không mơ màng yêu, mộng mị chiều, lãng mạn tình tứ của tháng cũ ngày xưa.

Nhưng không, ngoài cái tư riêng, Nháp đã vào cuộc với bao nhiêu trở trăn cho đất nước quê nhà, đã chín dạn yêu thương Ngọc Tuyết cũng đã biết khóc cho một tuổi xuân nằm xuống dưới ngọn cờ quê hương:

Trên lưng cuộc chiến trở mình, thời gian/ giọt lệ hồng trăm năm buốt lạnh
em ra đi, đá sỏi gọi/ quê hương ngẩng cao đầu (Hương lá mục). Còn đây là một hoài nghi rất người: mơ/ cái lưỡi khác mọc lên/ không xương/ lắt léo/ nghe niềm tin sỏi đá va đập nhau nhọc nhằn (Cuộc người).


Rồi Nháp khép lại với một Serenade mùa thu, những nốt chầm chậm thu trên cánh đồng mẫy hạt tình yêu nhân gian, một kết thúc đườm đượm buồn nhưng long lanh lóng lánh những mắt sao bờ cõi …

Tôi phong ba bờ cõi, sao mắt người vẫn buồn biển khơi. Tôi hôn lên mặt đất mùa thu gieo hạt ruộng trời, cánh đồng thời gian nhú lên khát vọng - em mặc lại chiếc áo dỡ dang từ cuối mùa thu cũ... bức tranh mosaic thu... chuồi mình theo những chiếc lá bay bay trang điểm cho mùa và gieo lên hạt tình vĩnh cửu.

Không có gì để nghi ngờ, Nháp chính xác là bản thảo đời của người phụ nữ Ngọc Tuyết trên chiều dài tháng năm tình lận đận, với khát khao đỏ hỏn mê muội bản năng, với câu hát tình lãng đãng buổi thu đông hạ tàn. Còn đó là những hoang tưởng, mâu thuẫn, những âm tiết vỡ vụn giấc mơ đời và tình, trở thành một thứ tôn giáo không kỳ vọng: Với Nháp, Ngọc Tuyết đã kết thúc chặng đường cũ và nhập vào khởi đầu của một biến tấu thơ mới hiện đại và sinh động hơn, không còn màu mè giả giả của những hình ảnh ước lệ, tư duy cũ nhàm bức tranh trăng xanh nguyệt bạch cỏ hoa hương sắc mây với gió ngày.

L.V
(251/01-2010)


----------------
* Chữ in đậm là tên các bài thơ
* Chữ in nghiêng là các dòng thơ trong tập và nhận định của các nhà phê bình





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NINH GIANG THU CÚC

    Tôi đọc Tim Tím Huế của Bùi Kim Chi bằng tâm trạng, và tâm cảm mình là một kẻ đang được dự phần trong cuộc hành hương về vùng trời hạnh phúc, về thiên đường của tuổi măng tơ, về lứa tuổi mà ai đó đã rất tự hào và trân quý khi họ viết.

  • NINH GIANG THU CÚC

    Tôi đọc Tim Tím Huế của Bùi Kim Chi bằng tâm trạng, và tâm cảm mình là một kẻ đang được dự phần trong cuộc hành hương về vùng trời hạnh phúc, về thiên đường của tuổi măng tơ, về lứa tuổi mà ai đó đã rất tự hào và trân quý khi họ viết.

  • THÁI KIM LAN

    Đầu năm 1999, nhà Văn hóa Thế giới ở Berlin gửi xuống Muenchen cho tôi ngót chục bài thơ, nhờ chuyển ngữ sang tiếng Đức cho tuần lễ văn hóa Việt Nam tại Berlin vào cuối tháng 3 năm ấy. Như thường lệ không đắn đo, tôi sốt sắng nhận lời.

  • LÊ MINH PHONG

    Đừng đặt tên cho họ…
    Có thể họ còn vô vàn những cuộc phiêu lưu khác nữa.

                               (Robbe - Grillet)

  • PHAN TRẦN THANH TÚ

    “Chính anh là người đã nhẫn tâm với bản thân mình khi tôn thờ chỉ có một điều duy nhất” (Đoản khúc số 97)

  • KỶ NIỆM 123 NĂM NGÀY SINH CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

    TRẦN HIẾU ĐỨC

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG 

    Chữ Quốc Ngữ (Q.N) viết theo dạng 24 chữ cái ABC xuất xứ từ các Thầy Dòng truyền giáo Tây Phương mang vào nước ta, cho đến nay gọi là được phổ biến trên dưới trăm năm, gói gọn vào thế kỷ 20.

  • THỤY KHỞI

    Lần hồi qua những trang thơ Lê Vĩnh Thái mới thấy chất liệu thơ từ Ký ức xanh (2004), Ngày không nhớ (2010) cho đến nay Trôi cùng đám cỏ rẽ(*) (2012) hẳn là sự hối hả của dòng chảy ký ức miệt mài băng qua những ghềnh thác thời gian, mà ở độ tuổi của anh có thể bị ăn mòn.

  • Hoàng Minh Tường

    Nhà văn, nhà báo Lê Khắc Hoan xuất hiện và gây ấn tượng trên văn đàn khá sớm: Năm 1959, khi đang là giáo viên trường Hoằng Thắng, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, Lê Khắc Hoan đã có truyện ngắn đầu tay Đôi rắn thần trong hang Pa Kham đoạt giải Khuyến khích báo Thống Nhất (Nguyễn Quang Sáng giải Nhất với truyện ngắn Ông Năm Hạng).

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Khi thơ như một tấm gương phản chiếu tâm hồn của tác giả, phản ánh nhận thức của người sáng tạo với cuộc sống quanh mình, chiếc bóng trong tấm gương ấy là một phần của sự thật. Đôi khi sự thật cũng chưa được diễn đạt trọn vẹn bằng ngôn ngữ của nhà thơ.

  • HOÀNG ANH 

    (Bài viết này, là nén hương lòng tôi thắp dâng lên linh hồn của anh Đơn Phương thân quý!)

  • LGT: Cho đến nay văn học Hậu hiện đại ở Việt Nam vẫn đang là một hấp lực đối với người sáng tạo lẫn phê bình, nhất là giới viết trẻ. Sông Hương đã từng có một chuyên đề sớm nhất về vấn đề này vào số tháng 7/2011.

  • BÙI VIỆT THẮNG  

    Bản thảo tập truyện Nhiệt đới gió mùa tôi nhận được từ nhà văn Lê Minh Khuê qua email cá nhân, in ra 115 trang A4, co chữ 12, đọc phải hết sức chăm chú vì mắt mũi có phần kém sút khi tuổi đã ngoại lục tuần.

  • VĂN GIÁ

    NHÀ VĂN VÕ THỊ XUÂN HÀ - Sống và làm việc tại Hà Nội. Quê gốc: Vỹ Dạ, Huế. Hiện là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa 8). Trưởng Ban Nhà văn Trẻ, Tổng Biên tập Tạp chí Nhà văn. Tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm (khoa Toán Lý). Tốt nghiệp thủ khoa khóa 4 Trường viết văn Nguyễn Du.

  • HỒNG NHU 

    Tạp chí Thơ số tháng 10 năm 2012 in bài “Hiểu và dịch bài thơ Đường Khúc Lương Châu như thế nào” của Phạm Thức. Tôi liền đọc ngay vì nói chung về Đường thi hàng nghìn bài nổi tiếng và nói riêng về tác giả là một nhà thơ tài danh: Vương Hàn.

  • THƯ PHÙNG QUÁN GỬI TÔ NHUẬN VỸ

    Sự thay đổi, tiến bộ của Việt Nam sau năm 1975 là to lớn và rõ rệt, đặc biệt trên lãnh vực đặc thù như Văn học, nếu nhìn lại những “vết sẹo” của một thời quá khứ để lại trên cơ thể nền Văn học, mà tiêu biểu là đối với nhà thơ Phùng Quán.

  • GS. VŨ KHIÊU 

    Lần này Vạn Lộc cho in trên 72 bài thơ Đường luật. Đối với Vạn Lộc, đây là một sự táo bạo và cũng là một thử thách với chính tài năng của mình.

  • TRẦN NGHI HOÀNG 

    “mảnh|mảnh|mảnh”, chỉ nhìn tập thơ, chưa cần đọc gì hết, đã thấy là một tác phẩm nghệ thuật tạo hình với bố cục táo bạo và vững vàng. Không offset bảy màu, không chữ nổi giấy tráng glassy, chỉ đơn giản hai màu đen và trắng. Đơn giản, nhưng rất công phu với khuôn khổ 12,5 x 26.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY*

    Tố Hữu là nhà cách mạng - nhà thơ.
    Cách mạng và thơ ca thống nhất hài hòa trong một con người. Một đời, Tố Hữu đồng thời đi trên Đường Cách MạngĐường Thơ. Với Tố Hữu, Đường Thơ và Đường Cách Mạng đồng hành như nhập làm một trong Đại lộ Đất nước, Nhân dân, Dân tộc vĩ đại trên hành trình lịch sử cách mạng.
    Đường đời Tố Hữu cùng là sự hòa nhập hai con đường này.

  • PHẠM PHÚ PHONG - HOÀNG DŨNG

    Trang viết đầu tay có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc đời của người cầm bút. Đó là điểm mốc, là bước chân đầu tiên đặt lên con đường hun hút xa, đầy lo ngại nhưng cũng hết sức hấp dẫn.