NGUYỄN ĐẶNG MỪNG
Nhà chị tôi cách trường Nguyễn Hoàng khoảng 400m. Hè năm 1970, tôi ra ở nhà chị để thi vào trường Nguyễn Hoàng. Thời đó học trò trường tư chỉ có 5% được thi tuyển vào lớp 10 của trường.
Minh họa: Nhím
Nhà chị tôi có cái giếng trong, cả xóm đều tới đó gánh nước. Anh chị tôi thường đi vắng. Tôi ra giếng treo võng đọc sách dưới tàng cây ổi. Buổi chiều, có con bé khoảng lớp tôi gánh đôi thùng tới, giọng trong veo, “anh chi đó ơi cho em xin đôi nước”. Tôi cười và nói cô tự nhiên. Tôi lại đọc sách tiếp, giả đò không thèm để ý con gái, nam nhi mà. Cô ấy múc đầy nước, rồi chào anh em về nghe. Chữ “nghe” cao lên, lảnh lót như tiếng chim.
Em quẩy thùng nước đi rồi mới thấy lòng mình chao động theo bước chân trần, chơi vơi nhịp gánh. Hai thùng nước đầy sóng sánh có mấy vệt nước rơi vãi ra ngoài. Thương chi lạ.
Đêm lại mơ tưởng, mộng mị lung tung, ba giờ sáng tôi đã thức giấc, nằm lơ mơ nghe từng tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ quả lắc. Con gà gáy tiếng rất khàn. Con gà trống mạ tôi gửi để ăn mừng ngày tôi xong đệ nhất cấp, nó có biết vài ngày nữa chết không, mà gáy tiếng khàn khàn buồn bã thế.
Rồi chiều mai cũng tới, nhưng chậm hơn, do lòng mình cứ ngóng trông. Bốn giờ chiều tôi đã tắm rửa, chải tóc, mặc bộ đồ đẹp nhất ra dưới tàng cây ổi “đọc sách”. Hôm đó đọc Gió đầu mùa của Thạch Lam…, chẳng có chữ nào vào đầu, chỉ trông chờ em gánh nước. Nước đầy cả giếng, cần chi xin. Nhưng em vẫn lễ phép, “anh chi đó ơi, cho tui xin đôi nước”. Tôi bật dậy khỏi võng chào em lí nhi: “Cô cứ tự nhiên”. Em cười, cái răng khểnh như nở hoa sau làn môi đỏ mọng. “Anh học trường mô”. Tôi ngập ngừng không biết trả lời sao cho thân thiện, bèn nói đại: “Niên khóa tới tôi sẽ học Nguyễn Hoàng”. Nói rồi mới thấy mình dại, mới thi xong chắc chi đã đậu. “Anh học ban chi. Em cũng học lớp 10, ban B”. Lỡ rồi, nói đại luôn, “Tui học ban C”. “Hi hi, mấy anh ban C là lãng mạn lắm”. Đứng đối diện thành giếng, em vừa múc nước vừa chuyện trò. Cái áo rộng cổ của em hé một chút bờ ngực mỗi lần em cúi xuống múc nước. Nói thiệt, từ nhỏ tôi chưa bao giờ thấy bờ ngực trần con gái. Hồi đó con gái ăn mặc kín đáo lắm. Tôi trân người, cuốn sách trên tay rơi xuống nước. Tôi xấu hổ sợ em biết ý đồ của tôi. Mà tôi có ý đồ gì đâu, chỉ “chộ” chớ không phải cố nhìn.
Ngày sau rồi ngày sau nữa, em vẫn tới gánh nước, nhưng luôn mặc áo sơ mi gài nút tới cổ. Chúng tôi vẫn nói chuyên trên trời dưới đất. Có lần nói chuyện đến 20 phút. Cô em thấy chị lâu về bồng em chạy ra tìm, hỏi “răng lâu rứa, mạ la tề”. Cô chị nói dối, “Đang hỏi anh về… bài thơ…”. Cô em lườm cái bồng em quay đi. Em lại cười, “chào anh em về. Khi mô rảnh qua nhà em chơi, ba mạ em quý bạn bè em lắm”. Trời, sướng muốn xỉu.
Những tưởng đời vui lắm. Ai ngờ!
Em đi học cùng đường với tôi, mặt có khi như lạ, như quen. Đôi mắt trong veo đen láy khi cười rạng rỡ, khi buồn hiu hắt, xa xôi. Chạm mặt nhau chỉ gật nhẹ đầu. Không ai chào ai, như người lạ. Con gái Quảng Trị “nết na”, oan nghiệt thế, mới đau. Đôi guốc cao gót làm dáng em khoan thai hơn, như rướn người lên trong tà áo dài tha thướt. Sáng nào tôi cũng ra đầu ngõ canh em rồi theo sau, cách khoảng vài chục thước cho an toàn. Thế mà em cũng biết, thỉnh thoảng quay lui, cười nhẹ cái.
Cho đến một ngày, em khóc rống lên, ở nhà xác Tiểu khu QT, ba em chết trận. Tôi đứng ngoài hàng rào kẽm gai, thấy em vật vã, em cúi xuống lạy cha, em bật lên hung dữ. Tôi không còn thấy chiếc răng khểnh, không tơ tưởng gì đến cây ổi, và giếng nước ngày thơ. Tôi khóc nức nở vào chiều đông năm ấy, đạp xe theo quan tài đi trong mưa gió, hơn mười cây số về quê em. Tôi lại đạp xe một mình trong mưa gió chạy về cho kịp, thời đó ban đêm không ai dám ra đường.
Ôi. Tôi sẽ đến nhà em như lời hẹn ước, như lời mời hồn nhiên của em. Phải chi còn ba, nhỉ.
Mấy ngày đi học không có em phía trước, buồn và thương em đứt ruột. Đầu tuần lại thấy em đi học với chiếc khăn tang. Gặp tôi đầu ngõ em chỉ khóc, không nói gì. Vẫn em đi trước, tôi theo sau. Mắt tôi nhòe đi. Bóng áo trắng như dải khăn tang chấp chới phía trước, lao đao lung linh lờ mờ nhang khói.
Chiều về em lại qua gánh nước. Em lặng lẽ múc nước. Nghe rõ tiếng nước lách tách trào ra chảy ngược xuống giếng. Đôi vai em mệt mỏi theo từng tao dây gàu. Đôi mắt buồn rượi nhìn tôi không nói gì. Tôi hỏi câu vô duyên: “Bài vở em có theo kịp không”. Em nói: “Em không thiết học hành gì nữa, chắc em nghỉ học để lo cho các em”.
Lần cuối em gặp tôi vào một đêm trăng, em đi gánh nước trễ hơn. Em nói “mai em về quê với mạ, để hương khói cho ba, và săn sóc ông mệ nội, gần tám mươi tuổi rồi. Em phải bỏ học. Nhớ trường nhớ bạn lắm nhưng biết mần răng đặng chừ. Bé Lĩnh (tên đứa em gái) gửi lại cho dì để tiếp tục đi học. Em còn hai em gái nhỏ, mạ một mình mần răng lo nổi. Tội nghiệp ôông mệ, chưa có cháu trai đích tôn. Em về quê, sáng đi học anh có còn nhớ em không. Sáng mô em đi học cũng có ý chờ anh, và biết sau lưng khi mô cũng có anh theo. Em biết anh thương mạ con em. Hôm đang quỳ làm lễ trước quan tài ba, thấy anh cứ lấp ló nhìn em, rồi anh lên lúc mô không hay. Em chạy ra đường anh đã xa rồi. Thấy anh đạp xe chạy trong mưa thương lắm”. Bé Lĩnh chạy qua nói, “Chị ơi, mạ nói chị cứ nói chuyện với anh đi, mai nhà mình về làng rồi, để em gánh nước về cho”. Tôi không nói được câu nào, chỉ cầm tay cùng em khóc miết. Tôi đưa em một đoạn về nhà, em bảo, “mời anh vô nhà đi, đừng sợ, từ ngày ba mất mạ cứ nhắc anh đó, vô đi”. Tôi theo em vào nhà. Di ảnh của ba em khói hương nghi ngút. Mạ em đang thắp nhang, quay ra “chào cháu”. Tôi vẫn đứng yên lí nhí “dạ”. Em bảo, “Anh thắp nhang cho ba đi”, em đưa tôi cây nhang, tôi vái lạy rồi quay ra cùng gia đình ăn chè đậu huyết. Mạ em nhìn tôi sửng sốt, hỏi “Cậu tên gì?” “Dạ tên M”. “Năm ni cậu mấy tuổi?” “Dạ mười bảy”. Bà nói: “Con trai tuổi Tỵ là gian nan lắm, bác trai cũng tuổi Tỵ, hơn cậu hai giáp, nhọc nhằn cả đời, cho đến lúc chết tiền lương tháng trong bóp vẫn còn nguyên, chưa tiêu đồng mô hết”. Con Mai tuổi Ngọ, chắc đời con cũng như đời mạ”. Bà hưng hức khóc. Mai và Lĩnh cũng nhòe nước mắt. Bà chậm rãi “Con Mai và con Lĩnh sinh ở đây, bác trai nói đặt tên Mai Lĩnh để mai lớn khôn biết nhớ núi nhớ sông, “Núi Mai, Sông Lĩnh”, nhớ nguồn cội của mình là dân Quảng Trị”.
Hai tuần vắng em, đêm nào tôi cũng nằm chiêm bao thấy em chít khăn tang khóc vật vã. Có khi thấy em cười như mếu, chiếc răng khểnh như búp hoa nhài chưa nở mà sao héo buồn thế.
Sáng chủ nhật hôm đó tôi đạp xe mười cây số về làng em. Tháng hai trời còn mưa bấc. Đằng xa, làng em mù mù lũy tre. Lúa thì con gái gợn sóng run rẩy theo từng luồng gió bấc. Tôi đứng rất lâu trước ngõ, nghe tiếng hò ru em vẳng ra từ mái nhà tôn:
“Ru em em thét cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
……..
Kim may vô áo đứt rồi
Tiếc công thầy mẹ đứng ngồi… chọn kim”
Ạ ơ ờ… Mạ bồng con ra ngồi cầu Ải Tử
Vợ trông chồng lên núi vọng phu
Biết răng chừ bóng xế trăng lu
Con ve kêu… rồi… mùa hạ, biết mấy thu… gặp chàng”.
Tiếng hò ru em xóm quê buồn như tiếng khóc. Tôi dắt xe đi vào sân kêu, Mai ơi. Tiếng hò im bặt. Em chạy ra, trân nhìn tôi. Mắt chớp chớp, hai giọt nước mắt lăn chậm trên gò má ửng chút hồng. Em gầy đi quá. Tôi hỏi, “Mạ đi mô?”. “Dạ đi chợ”. “Đi chợ Quán chợ Cầu hả… Mai hò hay lắm”. Em thành thật: “Về đây mỗi lần ru em lại nhớ anh. Hồi ở trên tỉnh, em không dám hò vì sợ “quê” với anh”. “Anh cũng quê mà. Mai hò tiếp cho anh nghe đi”. Em ngửng lên, cười nhẹ “Thì anh hò đi, Mai nghe”. Tôi hò một bài, em cười, bảo “Anh hò hay lắm, nhưng có chỗ sai lời”. Em lại cầm tao nôi, mái tóc nghiêng xuống trên chiếc nôi tre, con bé đang thiu ngủ giật mình khóc. Em lại dỗ dành, giọng hiền như mẹ, rồi cất giọng, tiếng à ời dài ra, càng về sau càng mềm đi, nhỏ đi như chỉ còn hơi thở. Ạ ơ hờ… Em thương anh, hái dâu quên giỏ, bứt cỏ quên liềm/ xuống sông gánh nước, đôộc chìm… gióng trôi... Em lại khóc nức lên, hai tay úp mặt cúi đầu, tóc rủ xuống rung theo từng nhịp nấc. Tôi để tay lên vai em, an ủi: “Đừng khóc, buồn lắm. Anh có mang về cuốn Truyện Kiều tặng em”. Em nói trong tiếng nấc: “Kiều, Kim Trọng chi nữa anh ơi. Đêm nằm ngủ em cứ mơ đang đi học, lại thấy anh thất thểu theo sau. Bữa nay anh đừng về nữa, không an toàn mô. Thôi, anh lên đi. Có dịp em ghé thăm anh, và bạn bè”.
Tôi nắm tay em, bàn tay lạnh run run. Em kéo tay lại, nhắc: “Anh lên liền đi, buổi chiều ở đây thỉnh thoảng hai bên rình bắn nhau đó”. Em tiễn tôi ra cổng, đứng nhìn theo. Tôi đạp xe như điên trong mưa bấc. Ngoái lui thấy bàn tay em vẫy vẫy, rồi hình ảnh em nhòe đi trong mưa, lũy tre đen thẫm lại.
Anh rể tôi biết chuyện tôi trốn về thăm em, kêu tôi lại nghiêm mặt bảo: “Cậu dám về làng P à, cậu có biết ở đó nguy hiểm không. Nếu cậu tái phạm thêm lần nữa tôi sẽ mách ba”. Tôi lý nhí nhận tội và hứa không về quê em nữa.
*
Một năm, năm rưỡi… Tôi vẫn đi học một mình. Nhìn tà áo nào cũng có hình dáng em. Chiều nào tôi cũng treo võng dưới cây ổi, bên giếng nước đọc sách, nhìn ra cánh đồng hướng nhà em. Tiếng súng, khói bom, làm tôi thót tim. Tiếng gàu múc nước ai đó cũng rổn rảng như vũ khí chiến tranh. Cũng có những buổi chiều yên ắng, mây lang thang bay từ đông về tây, trên cao vời, mà gió Lào thì thổi ngược lại. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, hơn bao giờ hết tôi thấm đẫm hồn thơ:
“Gió theo lối gió, mây đường mây…”
Và ngọn gió nồm mát rượt hiếm hoi, như mang tiếng hò em về, ngọt ngào mà cay đắng: Kim may vô áo đứt rồi/ Tiếc công thầy mẹ đứng ngồi chọn kim…
*
Mùa hè năm 1972, súng đạn mù trời. Bà con Quảng Trị dắt díu nhau chạy loạn, tứ tán người một phương.
Vào trại tạm cư Đà Nẵng tôi đi tìm khắp, từ Hòa Khánh về Non Nước, chẳng biết gia đình em ở phương mô. Một hôm đang lang thang trên bãi biển Hòa Long, nghe tiếng gọi, “anh M”. Quay lại thấy mấy cô nữ sinh Nguyễn Hoàng mặc đồng phục áo dài trắng đang đi dạo trên bờ biển. Một cô la lên: “Anh M phải không, Lĩnh đây nì”. Lĩnh chạy đến trước mặt tôi, cặp vở ôm nghiêng trước ngực, cúi đầu nói lí nhí, “mạ và chị Mai chết rồi anh nờ. Em ở với dì có xe nhà binh nên đi trước, không chờ mạ được. Nghe người ta kể, thấy mạ, chị Mai và hai em chết ở cầu Dài…”.
Trời đất như quay vòng, tôi quỵ xuống cát. Lĩnh ngồi xuống bên, gục đầu lên gối. Hai anh em im lặng, tấm tức khóc. Tháng mười, trời vần vũ cơn giông, sấm chớp và biển động. Ầm ào gió rít. Mưa ập xuống. Chúng tôi vẫn ngồi thế, trong mưa. Những hạt mưa bắn vào da đau rát, nhòe những vệt cát như những loạt đạn bắn xối xả. Rồi từng dòng, từng dòng nhỏ ngoằn ngoèo chảy thành dòng lớn hơn, từ từ trôi xuống biển.
Mưa ngớt, hai anh em ướt sũng đi dọc bờ biển. Mai tôi đi lính rồi, chưa biết bao giờ về lại Quảng Trị. Lĩnh đi bên thỏ thẻ, “anh M này, ra trường nhớ về cùng Lĩnh đi tìm xác Mạ, chị Mai và các em nghe anh. Anh nì, đêm nào Lĩnh cũng mơ thấy đi gánh nước cùng chị Mai. Có khi em rình, thấy anh chị cầm tay nhau, về méc mạ. Mạ nói, kệ tụi hắn, lớn chút nữa con sẽ hiểu. Giờ em hiểu rồi thì không còn chị để xin lỗi. Mai anh đi, Lĩnh không có gì tặng anh làm kỷ niệm, Lĩnh hát nghe.
Sóng ầm ào, mưa lâm thâm, giọng hát trầm, buồn thảm như lời nguyền, một lời hẹn xa vời không định trước: Ngày mai anh đi, biển nhớ tên anh gọi về… Và Mai nữa, anh sẽ về tìm Mai Lĩnh, tìm hồn sông núi, quê hương.
N.Đ.M
(SH309/11-14)
TRẦN BẢO ĐỊNH
1.
Hai Lượng tỉ mỉ chỉ cho Bảy Đặng cách bầu đất trộn tro trấu, bột xơ dừa để ươm hột măng cụt.
NHỤY NGUYÊN
Đúng ra tôi chưa có ý định đi thăm thằng Xuân. Lần vừa rồi gọi điện vào cơ quan, nó réo: “Khổ quá. Đã bảo mày chỉ việc vào đây. Vào chơi chán rồi tao thuê riêng cho chiếc taxi chở về thấu cái am của mày”.
LÊ VI THỦY
Hiên lấy chồng. Ai cũng ngơ ngác ngạc nhiên. Con bé mới mười sáu tuổi. Cái tuổi vô tư hồn nhiên, cái tuổi cũng chưa đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Vậy mà lấy chồng!
PHẠM NGỌC TÚY
1.
Tôi sẽ không kể lại câu chuyện này nếu tôi không gặp lại Hồng. Câu chuyện ám tôi suốt mấy đêm trường, những nhân vật sống động tuồng như cùng một lúc trở về trong giấc mơ tôi.
NGUYỄN HOÀNG ANH THƯ
Phố hôm nay ngập sâu sau một cơn mưa kéo dài từ tối hôm qua đến trưa nay, cô đang nhìn thấy điều ấy trên tivi. Cô hơi tiếc, giá như cô ra đó muộn hơn, dù sao thì đi trong mưa hay bơi trong mưa vẫn thích hơn là chạy trên chảo lửa nóng. Hà Nội tuần trước hơn 50 độ, hai chân cô sắp cháy.
DIỆU PHÚC
Tôi lại vào viện. Sốt không rõ nguyên nhân. Lần nào cũng thế, và tôi cũng đã quen dần với việc vài ba tháng lại phải nhập viện một lần.
TRẦN BĂNG KHUÊ
1.
Những đợt mưa xối xả từ tháng âm hồn vẫn còn rảnh rỗi kéo dài từng hơi thở tận đến cuối mùa thu vàng trong rừng cây vô sinh cô độc.
NGUYỄN VĂN UÔNG
Ông Bửu nằm gác chân lên vành chiếc chõng tre kê trước hiên nhà, mắt lim dim ngái ngủ giấc trưa. Chiều đã xế bóng. Gió nồm lao xao hàng tre trước ngõ, phớt nhẹ lên vầng trán lấm tấm mồ hôi.
LTS: Phạm Thị Ngọc Liên xuất hiện cuối những năm tám mươi. Tác phẩm đã in. - Vầng trăng chỉ một mình (Tập thơ - NXB Trẻ - 1969); - Biển đã mất (Tập thơ NXB Hội Nhà Văn -1990) và hai năm 1989-1990 đã đạt giải thưởng Truyện ngắn và thơ của Tạp chí Văn nghệ quân đội.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Nhiều năm sau này Vũ nhớ về Giao khi hai người ngồi bên nhau trên ban công lồng lộng gió trăng. Ban công nhìn ra sân với hàng cau già nhuốm tóc trăng sáng bạc, là những hình ảnh cuối cùng của một miền quê sắp bị đô thị hóa.
NGUYỄN THỊ DUYÊN SANH
Cho đến khi chiếc xe buýt chở Dần khuất hẳn cuối ngã tư, Thuyền mới lững thững quay về. Đi qua trước quán bar, cô thấy me Tím cũng xách túi chui vào ô tô cùng với tiếng máy xe khởi động êm ru.
ĐINH NGỌC TÂM
Đó không phải là một phòng trọ quá chật chội nhưng cũ rỉ cũ ri. Nước đọng rất lâu trong nhà tắm trước khi thoát hết.
ĐỖ QUANG VINH
Mọi chuyện bắt đầu với gói bưu phẩm, nó tới vào một ngày thứ tư nắng đẹp khi tôi đang ở chỗ làm. Người giao hàng đã bỏ nó lại trước cửa nhà mà không gọi điện thoại cho tôi, cũng không yêu cầu ký nhận gì.
NGUYỄN MINH ĐỨC
1.
Tảng sáng, bảy phát đại bác vội vã nã trống không xuống dòng Giang. Mặt đất rung chuyển. Bảy tiếng nổ liên hoàn kết thành làn sóng âm trong sương sớm.
DƯƠNG THÀNH VŨ
Tôi lại thất nghiệp.
Thượng Đế vốn nhân từ và công bằng. Ngài ban cho kẻ thừa tiền lắm của những lạc thú trần gian thì cũng ban cho cậu thiếu niên mười sáu tuổi đầu, không nơi nương tựa, sức chịu đựng bền bỉ, trí khôn đối phó với hoàn cảnh và bươn chải với đời.
BẢO THƯƠNG
Một dạo chúng tôi hay bàn luận về một cây viết bí ẩn, anh ta dùng bút danh Super, nhưng chẳng bao giờ lộ mặt; chúng tôi gõ đủ trên Google về cái tên nghe như nhân vật của một đế chế trò chơi nào đấy nhưng rặt không biết.
NGUYỄN VĂN HỌC
1.
Dễ đến sáu năm rồi, Hân có thói quen vừa xõa tóc bên hoa vừa nghe nhạc. Cô thích nhạc buồn, da diết nỗi niềm và ầng ậc nước mắt. Chả riêng dòng gì. Cô đắm vào đó.
LÊ MINH PHONG
Tôi thích tiếng vỡ của thủy tinh. Tôi không biết vì sao tiếng vỡ của thủy tinh lại mê hoặc tôi đến như vậy. Mê hoặc hơn cả những bản nhạc mà cha tôi thường nghe vào mỗi sáng.
VŨ THANH LỊCH
Giữa chiều, Nhiên gọi điện:
- Tao đón ở cổng cơ quan, mày đừng bận nữa. Bao nhiêu lâu rồi tao không nhìn thấy mặt mày đâu.
Viên ậm ừ rồi chặc lưỡi, bước xuống cầu thang, đi theo Nhiên.
NGUYỄN ĐẶNG MỪNG
Gái quê nghèo ấy người ta nghèo đến cả cách đặt tên. Anh Lô lên lớp đệ tam rồi, học ở tỉnh về, bà con vẫn gọi là anh Lọ, dù tên anh là Nguyễn Lô hẳn hoi, may ông anh làm ủy viên hộ tịch xã sửa lại cho.