Nhân, nghĩa, lễ, trí.. . và tâm

10:36 19/04/2010
FRANCOIS JULLIEN (Trích dịch ch. IV cuốn Đối thoại của Mạnh Tử với một triết gia Khai sáng)

Mạnh Tử - Ảnh: vietsoh.com

Sinh năm 1951, thạc sĩ triết học và tiến sĩ văn khoa, François Jullien là giáo sư Đại học tổng hợp Paris - VII, giảng dạy triết học và mỹ học Trung hoa cổ điển.

Ông là tác giả mười tập chuyên luận so sánh triết học Trung Hoa và triết học Âu châu, được đặc biệt chú ý là những công trình của những năm gần đây:
Xác lập cơ sở cho đạo đức: đối thoại của Mạnh tử với một triết gia Khai sáng (Grasset, 1995), Bàn về tính hiệu quả (Grasset, 1997) Minh triết phương Đông và triết học phương Tây (Grasset, 1998). 

Những công trình của Fran
çois Jullien làm nổi bật vai trò cơ bản của triết học trong đối thoại giữa những nền văn hóa, đưa ra một phương pháp luận so sánh văn hóa Đông - Tây mới mẻ có thể trình bày vắn tắt như sau: "hiểu lý trí châu Âu từ lý trí Trung Hoa và ngược lại", "suy tư Trung Hoa bằng châu Âu và ngược lại". Ở ta trong các lĩnh vực nghiên cứu văn học nghệ thuật, khoa học xã hội và nhân văn, nghiên cứu so sánh văn hóa Đông - Tây có tầm quan trọng đặc biệt. Phương pháp luận nghiên cứu so sánh hiện đương gặp những khó khăn chưa thoát ra được những đường mòn mà người đọc ngày nay không bằng lòng với sự ghi nhận giản đơn (và hời hợt) những chỗ giống nhau và khác nhau, hướng về phương Tây, họ không thể chấp nhận một tư duy co hẹp trong tính duy lý của nó, hướng về phương Đông, họ không muốn bị huyễn hoặc bởi một ảo ảnh tư duy huyền bí lung linh mầu sắc Đông phương. Với cách tiếp cận và phương pháp luận nghiên cứu so sánh mới mẻ F. Jullien đã phát hiện những phương thức trí năng, những phương thức làm việc lý thuyết khác với những gì mà tư duy châu Âu đã phát triển, ông cũng mở ra được những khả năng ý nghĩa mới mẻ của những ý niệm cổ điển của minh triết Trung Hoa cổ đại. Chúng tôi có mong muốn là những nhà nghiên cứu ở ta có dịp tiếp cận những cách tân phương pháp luận nghiên cứu so sánh Đông - Tây và những tìm tòi phát hiện khác của F. Jullien.

Ở ta phương pháp luận thường được trình bày ở dạng lý thuyết chay. Nhưng cái hay, cái đích đáng để mà học và có thể học được là ở phương pháp luận trong sự vận hành sống động ở những tìm tòi phát hiện trong quá trình vận dụng phương pháp. Chúng tôi có ý định giới thiệu phương pháp luận sống động của nhà triết học Pháp qua ba công trình của ông đã được giới thiệu ở trên. Dự án này của chúng tôi được Nhà xuất bản Đà Nẵng ủng hộ. Bản dịch của công trình
Fonder la morale. Dialogue de Mencius avec un philosophe des Lumières (Xác lập cơ sở cho đạo đức:
 đối thoại của Mạnh Tử với một triết gia Khai sáng) đã hoàn thành (lần biên tập thứ nhất). Nếu như lần biên tập cuối cùng sớm hoàn tất thì khoảng cuối năm 2000 Nhà xuất bản Đà Nẵng có thể cung cấp cho bạn đọc bản dịch công trình đầu tiên của F. Jullien được giới thiệu ở Việt Nam

Sau đây là bản trích dịch chương IV của công trình nói trên. 
                                                                                                Hoàng Ngọc Hiến

Francois Julien - Ảnh: photoshelter.com

...
Nghĩa vụ hay tình thương? Sự lựa chọn đặt ra như vậy xem ra là dứt khoát - thậm chí không vượt qua được. Giữa hai cực đối mặt nhau, cực " tình cảm" và cực "lý trí", tư duy châu Âu chao đảo - đúng hơn, nó xoay quẩn xoay quanh. Những lập luận được rà ráp sít sao hoàn chỉnh đến như vậy, từ cả hai phía, không cách nào tìm ra được lối thoát, và cuộc tranh cãi bị sa lầy: tìm cơ sở của đạo đức ở đâu đây, trong nghĩa vụ của lý trí hay trong thiên hướng (tình cảm) của bản tính chúng ta, theo thể thức một sự tất yếu vô điều kiện hay một xu hướng tự phát? Nêu lên cái tuyệt đối của luật, người ta bao giờ cũng bị nguy cơ không biết cắt sự phụ thuộc của mình đối với Thượng đế (hoặc chức năng Cha). Nhưng dựa vào chứng cứ của kinh nghiệm, người ta lại gặp phải một nguy cơ khác - nguy cơ không bao giờ tin chắc ở tính đạo đức của mình: không bao giờ tin chắc là thanh lọc được tình cảm đạo đức của mình, trút bỏ được mọi sự nhập nhằng. Và ngược lại ở tôi nảy sinh một sự nghi ngờ: mở đầu sự suy tư này, tôi dựa vào những "ca" cụ thể (đứa bé sắp té xuống giếng (1), con bò nhớn nhác (2)), tôi có cái lý chính đáng để làm như vậy không? 

Vì chưng sự đối lập bị chặn lại, không chịu làm việc nữa, cho nên ta chẳng có gì chờ đợi ở nó (ngoại trừ sự sụp đổ hoàn toàn của đạo đức đúng vào cái thời sau Shopenhauer và cùng với Nietzsche), chỉ còn hy vọng vượt qua sự khó khăn nan giải (aporie) bằng cách thay đổi hệ hình (configuration) của cuộc tranh cãi - có nghĩa là phải tư duy lại mỗi khái niệm của nó. Nhưng để làm việc này ít ra phải có được một cách nhìn khác, phải tìm được một điểm xuất phát mới. Điều này mời chúng ta nối lại cuộc đối thoại: không phải để tìm ở Trung Hoa giải pháp cho những mâu thuẫn này mà là để gỡ vấn đề ra khỏi vũng lầy - cho nó vận động trở lại. Sau khi nêu lên trường hợp đứa bé sắp té xuống giếng, Mạnh Tử bàn tiếp (II, A, 6): "Do theo thí dụ ấy mà xét, mình có thể quả quyết rằng: kẻ nào chẳng có lòng thương xót [trước những gì đe dọa người khác] kẻ ấy chẳng phải là người" (Đ. T. C Mạnh Tử, t, thượng, tr. 105) *. Cũng vậy, chẳng phải là người kẻ nào không biết " hổ thẹn" (hổ thẹn với việc xấu mình làm và hổ thẹn cho việc xấu người khác làm) . Hoặc là không biết "từ" và "nhường" chỗ cho người khác (theo ngôi thứ tự nhiên và xã hội); hoặc là không biết phân biệt "phải", "trái". Từ đó mà sinh ra bốn chức năng điển hình của ý thức đạo đức (có thể ví, theo hình ảnh Mạnh Tử dùng, với "tứ chi" của thân thể con người): hình thức thứ nhất của ý thức đạo đức (hoặc lương tâm) được xác định là "mối đầu" (đoan) của đức nhân; hình thức thứ hai là mối đầu của đức nghĩa; hình thức thứ ba là mối đầu của đức lễ; và cuối cùng, hình thức thứ tư là mối đầu của đức trí, năng lực phán đoán các giá trị. 

Điều lý thú nhất, trong mạch triển khai luận giải này, theo ý tôi, không phải là ở bảng liệt kê những hình thức của ý thức đạo đức mà ông đề nghị (đành rằng trật tự sắp thứ hạng ở đây có những ý nghĩa đáng suy nghĩ: cơ sở của nó là phản ứng không nỡ ở chúng ta và cuối bảng là năng lực phán đoán các giá trị, xem IV, A, 27) mà là ở cách thức những hình thức của lương tâm này biểu lộ đạo đức ở chúng ta. Bởi lẽ Mạnh Tử không nói rằng chúng cấu thành ý thức đạo đức mà chúng chỉ là "mối đầu" của ý thức đạo đức. Cái" mối đầu" này, như một nhà bình chú (Chu Hy) nói với chúng ta, giống như đầu mối của một sợi chỉ, nó ở bên trong, không hiện ra cho ta thấy và chỉ cái "mối đầu" này ló ra ngoài và ta thấy được. Điều này khiến ta nghĩ rằng, bám sát hơn nữa hình ảnh nói trên, những thiên hướng này biểu hiện một cách tự phát ở ta như là những khuynh hướng bên trong (disposition intérieure) hoặc là những " tình" (xem VI, A, 6) như tình thương hay tình cảm xấu hổ, chúng chỉ là mối đầu ở đó ý thức đạo đức bên trong của chúng ta ló ra (và chúng ta không thể có ý thức về nó nếu không có những phản ứng đột ngột trước sự nguy hiểm đe dọa người khác hoặc trước điều ác có kẻ gây ra). Nói cách khác, những phản ứng tự phát được xem như những dấu hiệu của ý thức đạo đức của chúng ta; chúng chỉ phát lộ, tiết lộ ý thức đạo đức: khi xảy ra phản ứng xấu hổ hoặc thương cảm, ý thức đạo đức đột nhiên lộ ra ở cấp độ kinh nghiệm; được trải nghiệm nóng hổi, ý thức đạo đức trong giây lát là một điều không thể chối cãi được và chúng ta - lần theo sợi chỉ - có thể đi tới vốn ngầm của nó. Nói cách khác, nhân những phản ứng này, ý thức đạo đức của chúng ta ra khỏi trạng thái tiềm ẩn của nó và "lô gích" ngầm của nó ta thấy được tức thì "đó là lô gích của bốn chức năng điển hình của nó, được gọi là , đối chiếu VI, A, 7). Đồng thời, cái mối đầu ở đó ý thức đạo đức ló ra chỉ là mối đầu - chẳng qua là một sự khơi mào: cái mà những phản ứng xấu hổ hoặc thương cảm để hiện ra như vậy chỉ là điểm xuất phát của một tiềm lực, như chúng ta đã thấy, trước sau sẽ triển khai. Vậy thì chúng không phải là những đức hạnh (vertu), mà chúng chỉ là những tiềm năng (virtualité).

3. Từ cái đầu nhú ra, mắt ta nhìn thấy được, chúng ta có thể lần đến cội gốc bị vùi lấp: phản ứng xấu hổ hay cảm thương, biểu lộ đột nhiên ở ta có gốc rễ sâu xa trong một ý thức "nguyên thủy" hoặc "cơ sở" (bản tâm). Ý niệm tâm là một trong những sáng tạo lý thuyết chính của Mạnh Tử, và nó hoàn toàn khớp với quan niệm của Rousseau (đối chiếu với lời của Rousseau bác bỏ chủ nghĩa hoài nghi của Montaigne: " dưới đáy tâm hồn có một nguyên tắc công bằng và đức hạnh bẩm sinh [.. .] và nguyên tắc này tôi đặt tên cho nó là lương tâm", E**., tr. 352) . Nhưng tôi không tin rằng quan điểm của Mạnh Tử vì thế lại bị đổ chịu đòn phê phán của Kant. Tình thương là "mù quáng", Kant nói. Mạnh Tử cũng không phủ nhận điều này, với vị vua đòi hỏi thay con bò nhớn nhác bằng con dê ông lựa lời dẫn dụ để nhà vua thấy được sự bất nhất của tình thương; nhưng dưới sự bất nhất của sự phản ứng Mạnh Tử thấy khá rõ một sự đòi hỏi không chối cãi được. "Một sự xem xét sâu sắc hơn", Kant nói với chúng ta trong một ghi chú nhấn mạnh việc tình thương không có năng lực vươn tới tính phổ biến của những nguyên tắc, cho thấy rằng tình thương "dù có nhạy cảm đến đâu", "tự nó không đạt tới được phẩm giá của đức hạnh", bởi vì "một đứa trẻ đau đớn" hoặc "một người phụ nữ trẻ khốn khổ" làm cho chúng ta buồn "trong khi chúng ta bình thản nhận tin một trận đánh lớn trong đó có thể thấy là nhiều kẻ vô tội đã chết trong những nỗi đau đớn tàn khốc". "Hơn một ông Hoàng thấy một người khốn khổ thì quay mặt đi, lòng chứa chan đau buồn, trong khi ông ta sẵn sàng tuyên chiến vì những động cơ thường là vớ vẩn". Mạnh Tử cũng nói in hệt như vậy với nhà vua của ông: vua không nỡ nhìn thấy con bò nhớn nhác bị lôi đi đến nơi hiến tế nhưng " động binh gây chiến thí mạng tướng sĩ và binh lính" (I, A, 7) vua lại không ngần ngại. Điều này không có nghĩa là sự phản ứng của nhà vua trước con bò nhớn nhác không phải là dấu hiệu của một đức hạnh có thực, mà có nghĩa là nhà vua đã không biết mở rộng sự đòi hỏi mà phản ứng biểu lộ cho toàn bộ hành vi của ông. Với tính chất thuần túy đột xuất của nó, phản ứng tình thương chỉ là khởi điểm, hoặc là " đầu mối" ló ra của đức nhân; và chính đức nhân này, khi nó được "khuyếch sung" (triển khai đầy đủ) , thì đạt tới tính phổ biến.

Kant có lý để nói rằng "không có gì hại - mà cứ tưởng là làm lợi - cho đạo đức "bằng việc" rút nó ra từ những ví dụ" (M. M***. p.115): bởi vì chúng là kinh nghiệm nên mang tính chất hạn chế và bao giờ cũng phụ thuộc vào cái cảm tính, chẳng có gì chứng tỏ rằng chúng xứng đáng làm những "ví dụ bản lai (originel)", và với tư cách ấy, đáng được nêu lên thành mẫu mực. Nhưng, như chúng ta đã thấy, hai " ca" mà Mạnh Tử nêu lên, "ca" đứa bé sắp té xuống giếng hoặc "ca" con bò nhớn nhác bị lôi đến nơi hiến tế không thể lấy để làm những tấm gương đạo đức (truyền lệnh cho người ta phải bắt chước): chúng chỉ có giá trị như là những dấu hiệu và chỉ là "mối đầu", nhô lên ở cấp độ kinh nghiệm và cảm tính, của một "lô gích" thoát ra ngoài kinh nghiệm và bị giới hạn bởi cái cảm tính - cái lô gích của ý thức ("bản lai" hoặc "cơ sở") của chúng ta. Trong những "ca" này, tình thế được nêu lên không được coi như là cung cấp cho tôi tiêu chuẩn cho phép tôi phán đoán về đạo đức hoặc cung cấp khái niệm cho phép tôi giới thuyết nó; nhưng, qua phản ứng trải nghiệm sống, tôi thấy được chỉ dẫn này, không chối cãi được: sự kiện được nói đến đâu phải để dùng cho tôi làm chuẩn mực đạo đức (hoặc làm quy tắc ứng xử), nhưng đối với tôi nó là sự bảo đảm rằng sự đòi hỏi của đạo đức có ở tôi. 

Cho nên phản ứng xấu hổ hoặc thương cảm có thể được chúng ta sống như là một xu hướng tự phát, nhưng không phải vì vậy mà có thể lược quy nó vào một thiên hướng của cảm xúc (và cũng không thể đem sắp nó vào cái mà Kant gọi là cái "bất thường" ("pathologique" với nghĩa là "anormal" ): về nguyên tắc xa lạ với mọi đạo đức, thậm chí không sao tránh khỏi quấy rối đạo đức, bởi vì nó quyết định ý chí với mục đích thú vui chứ không phải vì luật). Loại phản ứng này thoát ra khỏi sự đối lập truyền thống giữa "lý trí" và "tình cảm". Bởi vì những phản ứng tự phát này không có giá trị với tư cách là những động cơ bị quyết định một cách kinh nghiệm (và do đó gắn với lợi ích riêng tư) mà có giá trị như là dấu hiệu ở chúng ta của một nghĩa vụ nó, với tư cách là mối liên hệ bản lai với người khác, ở thượng nguồn của mọi kinh nghiệm (nhưng mối liên hệ này ta nắm bắt được tươi rói chính là nhờ những phản ứng đặc biệt này): thông qua những tình cảm xấu hổ và thương xót, đó là gốc rễ của tôi trong cộng đồng các sinh tồn phản ứng ở tôi và lay chuyển tôi - thậm chí ngoài ý muốn của tôi. Việc Kant dứt khoát từ chối lấy những điều kiện kinh nghiệm để quy định đạo đức và kiên quyết bác bỏ quan niệm xem đạo đức phụ thuộc vào bản tính con người - đó là một điều chính đáng; chúng ta sẽ thấy rằng bản tính con người, như Mạnh Tử quan niệm và được sử dụng để xác lập cơ sở đạo đức, không phải là bản tính "nhân loại học" (anthropologique) mà lại cắm rễ trong cái vô điều kiện. 

Trước tiên tôi thấy cần phải ghi nhận một sự khác biệt: dù là bắt nguồn từ bản tính con người hay từ lý trí, dù là mệnh lệnh của tình cảm hay của nghĩa vụ, mệnh lệnh đạo đức, ở Rousseau và ở Kant, biểu lộ như là một tiếng nói bên trong. "Ôi, lương tâm! lương tâm! bản năng thần thiêng, tiếng nói của trời bất tử! ", Rousseau (E. tr. 354). "Tiếng nói của trời". Kant nói, "cái tiếng nói của lý trí này", " làm run sợ ngay cả kẻ gian ác táo bạo nhất" (R. P. ****, p.49, 47). Vả chăng từ ngữ tiếng nói lương tâm là cách diễn đạt quá phổ thông khiến ta tưởng đương nhiên là như vậy, ta quên rằng đó là một ám dụ. Cách diễn đạt này hoàn toàn không có trong Mạnh Tử, cũng như trong toàn bộ truyền thống Trung hoa. Chúng ta có cơ hội để từ những sự lựa chọn triết học đối lập Kant và Rousseau lần lên tới khung văn hóa chung đã đánh dấu lên tri giác của chúng ta về đạo đức (bởi lẽ chỉ từ một bên ngoài, do sự khác biệt chúng ta mới thể nhạy cảm với tác động quyết định của khung văn hóa chung này). Đằng sau mô típ tiếng nói vọng tới chúng ta những nhà nhân loại học có thể dễ dàng nhận ra hình ảnh cổ xưa người chăn chiên và đàn chiên, hình ảnh này đặc biệt đậm trong Kinh thánh. Ở Trung Hoa, Trời không "nói", đây là chỗ khác với Thượng đế và chính lương tâm cũng không có "tiếng nói". Mà nó lộ ra trực tiếp cho chúng ta trong một phản ứng tự phát, giống như cái phản ứng được trải nghiệm trước cảnh đứa bé sắp té xuống giếng. Bởi vì người ta không thể ngờ rằng nó là sản phẩm của một sự nội hiện nào đó (interiorisation): chẳng phải là sự nội hiện những tình cảm oán hận của những kẻ yếu (như trong tư tưởng của Nietzche), chẳng phải là sự nội hiện chức năng của người Cha (như trong lý thuyết của Freud). Nó sạch sẽ về mặt hệ tư tưởng - được giải thoát mọi sự tha hóa. Cho nên có thể dùng nó làm đá thử vàng cho đạo đức. 

Phản ứng này đủ để ta yên chí về ý thức đạo đức của ta nhưng nó chỉ để lộ ra cho ta thấy đầu mối của ý thức đạo đức. Nó đã cho phép ta tìm ra ý thức đạo đức, công việc còn lại của chúng ta là đào sâu ý thức này. Bởi vì đem mở kinh nghiệm hướng về cái vượt qua nó, nó nối xúc động đặc biệt của chúng ta với cái cấu thành lô gích tổng thể của thực tại. Đáng lẽ đem đối lập nó tạo ra sự thông truyền giữa hai cực này; cho nên, từ "tình cảm" được gây nên chúng ta có thể lần lên tới " lý trí" biện minh cho nó, từ niềm xao xuyến được biểu lộ chúng ta có thể lần lên tới bản tính ngầm của chúng ta.

(136/06-00)



-----------------------
* Những ghi chú về những câu trích dẫn từ sách Mạnh Tử được đặt trong vòng đơn lần lượt chỉ số thứ tự của quyển (từ I đến VII), chương trước (A) hay chương sau (B) của mỗi quyển và số thứ tự của tiết (ghi bằng số Ả rập). Trong bản dịch tiếng Việt này, những câu trích dẫn từ sách Mạnh Tư có ghi chú (D. T. C. ..) được lấy từ bản dịch tiếng Việt của Đoàn Trung Còn trong tác phẩm Mạnh Tử (tập thượng và tập hạ) của Nhà xuất bản Thuận Hóa Huế, 1996.
** Rousseau, E..:
Emile ou de l'éducation, Paris, Garnier, 1961.
*** Kant, M. M:
Fondements de la metaphysique des moeurs, tr. Victor Delbos, Paris, Delagrave, 1967. 
**** R. P.:
Critique de la raison pratique, tr., J. Gibelin, Paris, Vrin, 1965. 
1... Người ta ai cũng có lòng chẳng nỡ đối với kẻ khác, vậy hãy đem ví dụ này làm bằng chứng: tỷ như có một đám người thấy một đứa trẻ con sắp té xuống giếng. Thấy vậy, ai cũng động lòng kinh sợ, thương xót mà muốn cứu đứa trẻ
Đ. T. C Mạnh tử, t.thượng, tr.105.
2... Một hôm, vua đương ngồi trong đền. Bỗng có người kéo con bò đi qua trước đền. Thấy vậy vua hỏi rằng: Dắt bò đem dùng việc chi vậy? Người ấy đáp rằng: Đem giết nó đặng lấy máu làm lễ bôi chuông. Vua liền ra lệnh: Thả nó đi. Ta chẳng nỡ thấy bộ dạng nhớn nhác của nó, dường như người vô tội mà bị đưa đến chỗ chết. Người ấy hỏi: Nếu vậy thì bỏ lệ bôi chuông sao? Sao lại bỏ? Hãy đem con dê mà thế vào Đ. T. C Mạnh tử t. thượng, tr. 23-25.



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)