Tháng 7 năm nay, nhạc sĩ Phó Đức Phương vừa tròn 70 tuổi. Bước vào lứa tuổi cổ lai hy, anh đang là một tay cự phách trong làng nhạc, có nhiều sáng tác mang âm hưởng dân ca rất thành công. Khá bận rộn với vai trò Giám đốc Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam, Phó Đức Phương vẫn không quên hoạt động sáng tạo âm nhạc. Anh là một trong số các nhạc sĩ Việt Nam được giải thưởng Nhà nước.
Nhạc sĩ Phó Đức Phương
Nhạc sĩ Phó Đức Phương sinh ở Hà Nội, quê nội ở Hưng Yên, quê ngoại ở Bắc Ninh, quê hương của những làn điệu quan họ tuyệt vời. Anh là cháu của nhà cách mạng nổi tiếng Phó Đức Chính - “tay phải” của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học.
Lúc còn là học sinh phổ thông, Phó Đức Phương đã thể hiện năng khiếu âm nhạc, yêu thích ca hát và hăng say hoạt động văn nghệ. Lúc đó, Phó Đức Phương còn sáng tác “trường ca”, “lớp ca”, tức bài hát dành riêng cho trường mình, lớp mình, tuy rằng lúc đó anh chỉ có chút ít kiến thức về nhạc lý cơ bản và chưa biết gì về phương pháp sáng tác âm nhạc. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, không hiểu tại sao Phó Đức Phương không thi vào trường nhạc mà lại thi vào Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, trúng tuyển vào khoa Toán - Lý. Nhưng đến cuối năm thứ hai, sắp bước vào năm thứ ba, anh xin thôi học vì lẽ say mê âm nhạc hơn ngành đang học. Sau đó anh xung phong đi nông trường Cửu Long ở Hòa Bình, làm công nhân chăn nuôi, vừa xâm nhập thực tế, vừa chờ cơ hội đi học nhạc. Đó là vào năm 1965, lúc anh 21 tuổi.
Năm 1966, anh thi vào Trường Âm nhạc và trúng tuyển. Khi được hỏi có cảm thấy bất lợi khi không đi trực tiếp mà đi đường vòng để đến với âm nhạc, Phó Đức Phương tâm sự: “Tôi tuy phải đi đường vòng, nhưng cũng chẳng thiệt thòi gì. Những năm tháng trăn trở, lao động, chất liệu cuộc sống, tình yêu âm nhạc đã thấm rất sâu trong tâm hồn tôi. Với riêng tôi, toán học và âm nhạc có mối liên hệ đặc biệt. Toán học tưởng chỉ là những con số, nhưng thật ra đó là khoa học trừu tượng, rất cần một óc tưởng tượng cũng như âm nhạc vậy…”.
Sáng tác đầu tay của Phó Đức Phương được công chúng biết đến chính là bài Những cô gái quan họ, một ca khúc rất thành công khiến người mộ điệu bắt đầu biết đến tên anh. Lúc ấy anh mới 22 tuổi, quá trẻ (!). Đó là thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh leo thang đánh phá miền Bắc của không quân địch. Hồi ấy Trường Âm nhạc Việt Nam sơ tán tại xã Xuân Phú, huyện Yên Dũng, tỉnh Hà Bắc.
Trong thời gian chờ đợi học tập những tiết học đầu tiên và chính trong khung cảnh của một làng quê Việt Nam truyền thống, chiếc nôi của những làn điệu dân ca quan họ ngọt ngào, tình tứ, Phó Đức Phương đã viết ca khúc Những cô gái quan họ. Ngay mấy câu mở đầu ca khúc này cũng đã tạo được ấn tượng đẹp: Trên quê hương quan họ, một làn nắng cũng mang điệu dân ca/ Giữa mùa lúa thơm cánh cò bay đẹp như trong mộng… Cái độc đáo của bài hát này là trong giai điệu hoàn toàn không có dấu vết của một làn điệu dân ca quan họ cụ thể nào, nhưng người nghe lại cảm thấy khá rõ nét duyên dáng của các cô gái trên quê hương quan họ và cái hồn dân gian của nông thôn miền Bắc đang bàng bạc trong từng câu ca của bài hát.
Sau thành công bước đầu này, Phó Đức Phương lại tiếp tục sáng tác, đáng chú ý có các bài: Tình ca trên những công trình mới, Tacano - nhân chứng quả cảm… và nhất là bài Hồ trên núi. Bài này được sáng tác vào năm 1971 cho một bộ phim tài liệu nghệâ thuật của đạo diễn Khánh Dư. Để có cảm hứng sáng tác cho ca khúc này, Phó Đức Phương tìm đến hồ Cấm Sơn (Bắc Giang). Khi đang chèo thuyền trên hồ, một nét nhạc chợt đến: Núi (ư) núi, thuyền (ư) thuyền, mây (ư) mây, nước (ư) nước…/ Thuyền ta ngược, thuyền ta xuôi, giữa dòng nước bạc nhịp chèo ta bơi… Lối điệp từ cũng như cách tái hiện nét nhạc trong bài hát như vẽ ra trước mắt người nghe một bức tranh thủy mặc mô tả cảnh thiên nhiên yên bình.
![]() |
Ca khúc Chảy đi sông ơi và Trên đỉnh Phù Vân của nhạc sĩ Phó Đức Phương được nhiều ca sĩ biểu diễn. Ảnh: TƯ LIỆU |
Phó Đức Phương là một nhạc sĩ có khá nhiều sáng tác về hồ. Ngoài bài Hồ trên núi, có thể kể thêm một số bài thật mượt mà, bay bổng, như: Huyền thoại hồ núi Cốc, Một thoáng Tây Hồ, Nơi áo chàm hồ xanh Ba Bể, Phiên chợ lòng hồ, Nao nao Thác Bà… Phó Đức Phương sáng tác bài Huyền thoại hồ núi Cốc vào năm 1982. Viết về một công trình thủy lợi, nhưng anh đã đưa vào bài hát truyền thuyết dân gian về hồ này một cách khéo léo, hấp dẫn (đôi trai gái yêu nhau nhưng không thành vợ chồng đã hóa thành núi và sông ở nơi đây). Bài Một thoáng Tây Hồ được sáng tác vào năm 1984, ca ngợi vẻ đẹp của một thắng cảnh nổi tiếng trên đất thủ đô ngàn năm văn hiến.
Trong thời gian gần đây, nhiều ca sĩ biểu diễn rất thành công những sáng tác khác của Phó Đức Phương, như: Trên đỉnh Phù Vân, Không thể và có thể, Chảy đi sông ơi, Về quê…. Vào khoảng năm 1995 - 1996, tác giả Nguyễn Khắc Phục và đạo diễn Lê Hùng mời Phó Đức Phương viết nhạc cho vở kịch Yêu trên đỉnh Phù Vân của Đoàn kịch Hải Phòng, trong đó có ca khúc chủ đề Trên đỉnh Phù Vân đề cao khát vọng cháy bỏng của tình yêu. Ca khúc này rất đậm chất âm nhạc dân gian của ca trù, tuồng, chầu văn…
Phó Đức Phương viết bài Không thể và có thể vào đầu mùa hè năm 1997, hoàn thành sau ba, bốn ngày. Thoạt nghe bài này, ta có thể nghĩ rằng tác giả muốn mượn hình thức âm nhạc để trình bày quan niệm của mình về cặp phạm trù “không thể và có thể” cùng những sự vật đang tuân thủ những quy luật khách quan của tự nhiên, của xã hội... Thời gian đã qua đi không thể trở lại, dòng sông đã ra đi làm sao về chốn cũ... đúng là những điều không thể xảy ra. Đồng thời quanh ta cũng có nhiều điều có thể đến: Người đã ra đi có thể trở về, vòng tay yêu thương có thể rộng mở... Cái không thể rất giới hạn, nhưng cái có thể thật mênh mông vô cùng tận.
Đúng là ca khúc Không thể và có thể mang tính triết lý nhưng còn hơn thế nữa, vừa mang tính nhân bản, nhân ái, vừa đậm chất trữ tình, khao khát yêu thương: ...Có thể một ngày nào chúng ta sẽ thành đôi. Cái hay, cái đẹp của bài hát này là tính độc đáo về nội dung và tính dân gian trong giai điệu.
Đầu năm 1997, đạo diễn Trọng Khôi tìm gặp Phó Đức Phương mời viết phần âm nhạc cho vở kịch Thuyền lá (kịch bản Chu Thơm, do Nhà hát Kịch Việt Nam thực hiện). Ca khúc chính trong kịch là bài Chảy đi sông ơi, kể lại một mối tình mặn nồng, cháy bỏng, nhưng gặp phải số phận bất hạnh đành lỡ làng, chia xa, dù đau khổ, đắng cay vẫn đợi chờ, hy vọng.
Nói về một chuyện tình không thành, nhưng qua bút pháp tài hoa của Phó Đức Phương, giai điệu ca khúc Chảy đi sông ơi vươn lên, bay bổng, trong sáng. Nét nhạc yêu thương, đằm thắm như nhắn nhủ, gửi gắm tâm sự riêng buồn thương vào dòng sông hiền hòa đang chảy mãi về xuôi. Ca từ giàu hình tượng văn học, pha chút triết lý về con sông trẻ mãi không già, không hề tiếc vơi đầy… Cái thần, cái hồn của âm nhạc dân gian đã được Phó Đức Phương thổi vào ca khúc Chảy đi sông ơi. Mặt khác, quyện vào giai điệu là âm hình tiết tấu hiện đại tạo cho bài hát tính cách mới mẻ, gần gũi với công chúng yêu nhạc hôm nay.
Thời thơ ấu ở quê đối với Phó Đức Phương là chuỗi ngày đầy ắp những kỷ niệm êm đẹp bên con đê, hàng tre, cạnh dòng sông bên lở bên bồi, có bánh đa, bánh đúc... Lớn lên, học tập và công tác tại Hà Nội, anh không phút nào quên nghĩ đến quê mình. Anh tâm sự: Viết về quê sẽ phải thật giản dị, nôm na, phải thật sự chân thành... Và tôi thấy tim mình nhói rộn lên một chút hồi hộp, bồn chồn. Tôi suy ngẫm, băn khoăn và dồn tụ dần những tình ý của mình cả trong mỗi bữa ăn, lúc làm việc hoặc chuyện trò cùng người này, người khác...
Một đêm năm 1998, khi đang sáng tác bài Về quê, anh đã phải buông bút, đứng dậy lấy chiếc khăn mặt lau nước mắt vì xúc động. Ngôn ngữ âm nhạc trong tác phẩm mang đậm nét màu sắc dân gian đồng bằng Bắc bộ, ca từ giàu hình tượng văn học gợi nhớ khung cảnh làng quê êm đềm, thân thương. Nhưng có lẽ thành công của bài hát chủ yếu là do tính mộc mạc, giản dị và chân thành.
Nguồn: Nhạc sĩ Trương Quang Lục - SGGP
Các nhà nghiên cứu vừa phát hiện ra rằng Luwig van Beethoven đã soạn nhạc theo nhịp đập trái tim mình. Theo họ, những nhịp điệu ấn tượng trong một số tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà soạn nhạc có thể xuất phát từ chứng loạn nhịp tim của ông.
Có lần tôi hỏi một nhóm các nhà soạn nhạc trẻ mà tôi đang giảng dạy xem liệu có thứ âm nhạc hiện đại nào khiến họ không ưa chăng. Hơn một nửa số người đã nhắc đến Pierre Boulez.
Joseph Haydn là một nhà soạn nhạc đáng kinh ngạc và hài hước là một phần trong nghệ thuật tuyệt vời của ông.
Nhạc: NGUYỄN VIỆT HOÀNG
Thơ: NGUYỄN THÀNH PHONG
George Harrison của ban nhạc The Beatles gọi ông là “bố già” của dòng World Music. Yehudi Menuhin, Philip Glass, André Previn, Zubin Mehta và David Murphy từng hợp tác ra album hoặc chỉ huy tác phẩm của ông. Nhiều nghệ sĩ độc tấu, trong đó có nghệ sĩ flute Jean-Pierre Rampal hay nghệ sĩ cello Mstislav Rostropovich, đều từng mời ông biểu diễn cùng. Ông là nghệ sĩ đàn sitar, nhà soạn nhạc cổ truyền Ấn Độ Ravi Shankar.
LÊ ĐÌNH BÍCH
Sau lần dự buổi giảng dạy về văn hóa và âm nhạc của chúng tôi cho sinh viên Đại học SIT - Hoa Kỳ theo kế hoạch thường niên hợp tác giữa Đại học Cần Thơ và Đại học SIT, nghiên cứu sinh tiến sĩ âm nhạc Alexander M. Cannon, thuộc bộ môn âm nhạc học Đại học Michigan quyết định về Cần Thơ nghiên cứu âm nhạc Tài Tử Nam Bộ - một phần trong luận án tiến sĩ của anh.
Nền Âm nhạc Việt Nam vừa phải đau đớn tiễn biệt những vị nhạc sĩ tài hoa liên tiếp chỉ trong một thời gian ngắn, từ Trần Văn Khê, Phan Huỳnh Điều, Phan Nhân cho tới An Thuyên. Trong số này, nhạc sĩ An Thuyên được coi là gương mặt tiêu biểu của dòng âm nhạc dân gian đương đại.
Đa số giao hưởng của Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791) được viết ở giọng trưởng, chỉ có hai bản giao hưởng số 25 và số 40 đều được viết ở giọng thứ (Sol thứ).
Mặc dù tên tuổi của Cristofori ít được phổ biến rộng rãi, nhưng cây đàn piano do ông tạo ra đã trở thành nhạc cụ có tầm ảnh hướng rất lớn đến nền âm nhạc và xã hội loài người.
Âm nhạc cổ điển vốn có tiếng là quý phái song cũng đầy rẫy những cuộc luận chiến và những vụ bê bối. Clemency Burton-Hill chọn ra một vài sự vụ đình đám nhất trong số đó.
Huế và chùa, hai mảnh ghép trong vô tận mảnh ghép cuộc đời họ Trịnh, chỉ duy, chúng hình như gần trái tim của người nhất, hay nói cách khác, Trịnh đã hít thở từ khi còn nằm nôi...
NGUYỄN VIỆT
Tuyển tập Rừng hát do Nxb. Văn học ấn hành, vừa ra mắt bạn đọc tháng 1/2015, là một công trình xuất bản văn học nghệ thuật công phu, chất lượng và rất đáng trân trọng về những tác phẩm và công trình nghiên cứu của nhạc sĩ, nhà văn, nhà biên kịch, nhà nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian Minh Phương.
Sau hơn một năm điều trị bệnh, dù được các y bác sĩ tận tình cứu chữa, nhưng vì tuổi cao, sức yếu, nhạc sĩ Hồ Bông đã trút hơn thở cuối cùng vào lúc 16 giờ 15 ngày 23-4, tại Bệnh viện Thống Nhất, TPHCM.
Martin Jarvis, giáo sư âm nhạc người Wales hiện đang giảng dạy tại ĐH Charles Darwin, Úc, vừa đưa ra một số bằng chứng cho rằng người vợ thứ hai của Bach, Anna Magdalena, mới chính là tác giả thực sự của một số tác phẩm lớn của ông, bao gồm cả bộ tác phẩm Cello Suites kinh điển.
“19 tháng 8”, “Giải phóng Điện Biên”, “Tiến về Hà Nội”, “Đất nước trọn niềm vui”, “Như có Bác trong ngày đại thắng”…là những khúc tráng ca đầy hào hùng và xúc động ngợi ca chiến thắng của quân và dân ta, gắn liền với những mốc son của lịch sử dân tộc.
Các dòng nhạc ít nhiều đều góp phần nuôi dưỡng lẫn nhau. Ta có thể nói các bài hát của Adele có cấu trúc giống các ca khúc nghệ thuật của Schubert và việc vay mượn giai điệu có thể đã không tồn tại nếu không có Dvorák.
Trong cảnh phong trần của lịch sử dân tộc, mỗi con người đều mang chút thân phận éo le, không cứ gì các bậc tài danh. Nhưng tài danh thì nhiều người biết đến, và trở thành tiêu biểu, như nhạc sĩ Đoàn Chuẩn (1924-2001) đã ra đi ngày 15 tháng 11, 2001 tại Hà Nội, mà những ngày se lạnh đang nhắc lại những khúc ca mùa thu tuyệt diệu mà ông là tác giả.
Nhà soạn nhạc người Anh Richard Blackford vừa cho ra đời một tác phẩm giao hưởng chưa từng có: “The Great Animal Orchestra” (Dàn nhạc Động vật Vĩ đại), lồng ghép những âm thanh của các loài vật hoang dã vào chất liệu của một dàn nhạc giao hưởng hoàn chỉnh. Không chỉ là một tác phẩm âm thanh ngoạn mục, bản giao hưởng còn đặt ra những câu hỏi đáng suy ngẫm về mối quan hệ giữa động vật, con người và âm nhạc.
VĂN THAO
Trích hồi ký Văn Cao - Đời & nghiệp
Mùa thu năm 1947, từ Lào Cai, Văn Cao trở về Vĩnh Yên. Ông cùng gia đình mở một quán cà phê tại chợ Me Lập Thạch tiếp tục làm báo Độc Lập và phụ trách một cơ sở in báo đóng tại Thản Sơn.
Tiếp theo sự ra đời của nhiều trường phái mới cùng song song tồn tại như Ấn tượng, Biểu hiện, Tân Cổ điển, Nhạc 12 âm v.v. với những cách tân để thay thế cho những quy phạm cũ của nền âm nhạc truyền thống, nửa sau thế kỷ 20 lại chứng kiến một cuộc cách mạng triệt để không kém về triết lý sáng tác, từ đó cho ra đời các tác phẩm thể hiện những tư tưởng cá nhân đầy táo bạo.