Nhạc sĩ Phạm Duy - một vài chuyện tình ở Huế

09:34 08/12/2014

Phạm Duy sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, hơn một phần ba cuộc đời ông sống ở Sài Gòn, hơn một phần ba sống ở ngoại quốc. Ông đi nhiều, yêu và được yêu cũng nhiều, kể cả người Pháp. Nhưng rồi qua trải nghiệm ông thấy người con gái Huế ông yêu là đẹp nhất, sâu sắc nhất...

rang bìa nhạc phẩm Kiếp Nào Có Yêu Nhau của Phạm Duy. Ảnh nhỏ là ca sĩ Khánh Ngọc. Tài liệu của Ngô Tuệ.

Mỗi nghệ sĩ Đông cũng như Tây, xưa cũng như nay đa số đều có nhiều người yêu, nhiều cuộc tình. Nhưng theo tôi, dưới con mắt của nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật thì ta chỉ nên quan tâm đến những người tình, những cuộc tình có tác động đến tác phẩm văn học nghệ thuật của tác giả ấy mà thôi. Mà, biết được chuyện tình của các tác giả đã khó, biết nó tác động đến tác phẩm của họ như thế nào lại càng khó hơn. Rồi khi đã biết cả rồi nhưng nếu những người tình đó còn đang tại thế, chưa được sự đồng ý của họ thì người viết cũng không được công bố, trừ trường hợp được người trong cuộc cho phép. Vì thế tôi đã theo đuổi đề tài “Những người tình của nhạc sĩ Phạm Duy” hằng mấy chục năm qua mà chưa tiện động bút. Nay nhạc sĩ Phạm Duy sau khi bước qua tuổi 93, sức yếu, nhiều bệnh, chỉ trong vòng chưa đầy một tháng đã phải vô bệnh viện cấp cứu nhiều lần, không thể hẹn được nữa nên tôi xin giới thiệu một vài chuyện hy vọng sẽ được nhạc sĩ Phạm Duy xem qua và góp ý giúp tôi những chỗ bất cập.

Tôi xin bắt đầu từ Huế. Bởi vì…Từ năm 1955, tôi được nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ dạy cho tôi biết cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nhạc phẩm Tình Ca của Phạm Duy. Nội dung bản nhạc ấy ảnh hưởng suốt cả cuộc đời tôi. Tôi mong có dịp được gặp nhạc sĩ để hỏi ông: “Trong lời bài Tình Ca ông viết – Biết ái tình ở dòng sông Hương - Xin ông cho biết người tình đó là ai vậy?”.  Một cậu học trò lớp 6 mà mong như vậy thì thật viễn vông. Không ngờ, đúng nửa thế kỷ sau, với biết bao lần gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi thư từ, gần gũi chuyện vãn, vào năm 2005, tôi có dịp phỏng vấn nhạc sĩ Phạm Duy cho tạp chí Sông Hương. Tôi mở đầu cuộc phỏng vấn bằng câu hỏi đã nằm trong đầu tôi nửa thế kỷ trước. Nhạc sĩ Phạm Duy đồng ý trả lời nhưng hẹn sau khi thực hiện cuộc phỏng vấn xong đã. Giữ đúng lời hứa, sau khi cuộc phỏng vấn hoàn tất, ông đã cho tôi biết người ấy là ai và yêu cầu tôi không được đưa vào bài trả lời phỏng vấn. Tôi cam kết sẽ không….Và ông đã cho biết người ấy là “K. M. - một nữ sinh trường Đồng Khánh yêu kiều diễm lệ đang nổi tiếng với hát bài Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong”. Tôi kêu lên: “Té ra chị K.M. à? Em biết. Đến nay chị ấy vẫn còn đẹp, vẫn còn hát rất hay, vẫn được xem là một giọng hát tiểu biểu của Cựu nữ sinh Đồng Khánh Huế. Hèn chi mỗi lần hát nhạc kháng chiến của Phạm Duy chị hát say sưa lắm!”. Phạm Duy giải thích: “Mình gặp K.M. trong không khí của Cách mạng Tháng tám/1945 ở Huế mà!”

Sự thực, trước khi quen biết K.M. ở Quán Nghệ Sĩ, Phạm Duy ra Huế lần đó theo tiếng gọi của B.T.- một nữ sinh Đồng Khánh khác, con gái một vị đại thần cũ, nhà ở trên đường Nam Giao (đường Điện Biên Phủ ngày nay). Nàng yêu say đắm tiếng hát Phạm Duy qua sóng Radio Sài Gòn. Nàng muốn làm vợ Phạm Duy. Phạm Duy có cảm tưởng “Nàng là Mỵ Nương ở trần thế xem Phạm Duy là một Trương Chi”. Người đẹp con quan sống trong lầu son ấy không hợp với đời sống anh hát rong với phông màn sân khấu bụi trần. Chuyện tình chỉ còn là một kỷ niệm. Mỵ Nương của Phạm Duy được gả cho một chàng trai xuất thân trong gia đình “môn đăng, hộ đối”.  Chàng Trương Chi Phạm Duy tiếp tục kiếp cầm ca. Nhưng dù sao chuyện tình đó cũng đã gây hứng cho Phạm Duy sáng tác nên bài Khối tình Trương Chi. Nàng ở chốn lầu son trên đường Nam Giao, chàng là người hát rong đêm đêm vang vọng tiếng hát xuôi ngược sông Hương. Câu chuyện được kể bằng thanh âm da diết, sâu lắng, thấm đậm tình đời.


“Đêm năm xưa khi cung đàn lên tơ,
 Hoa lá quên giờ tàn,
Mây trắng bay tìm đàn,
Hồn người thổn thức trong phòng loan.
Đêm năm xưa nghe cung đàn gây mơ,
Âu yếm nâng tà quạt,
Hôn gió đưa về thuyền,
Tưởng người trên sóng ru thần tiên…

[…] 

Đêm năm xưa ôm mối tình dở dang,
Chôn đáy sông hôn cầm,
Ai chết đêm nguyệt rằm
Ngợ tình còn đó chưa trả xong…

[…]

Ôi duyên xưa ai đã trả cho ai
Cho mắt rơi lệ rồi
Cho chén tan thành lời
Để thành bài hát ru lòng tôi”


Khối Tình Trương Chi ra đời vào năm 1946, sau đó một năm thì Toàn quốc kháng chiến. Phạm Duy đi theo kháng chiến, vừa hát vừa sáng tác và được quàn chúng từ thành phố đến nông thôn rất mến mộ, ông trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng. Khổng rõ trong trường hợp nào nàng Mỵ Nương trong bài “hát ru trong lòng” ông gặp lại ông. Không giấu được nỗi khát khao yêu đương mà không được đáp lại, nàng Mỵ Nương đã thổ lộ hết tâm tình của mình với chàng. Người chứng kiến và hiểu được mối tinh dang dở đó là Võ Thị Hoài Trinh. Không rõ Hoài Trinh xúc động trước mối tình đó quá sâu sắc hay cô cũng gặp một trường hợp tương tự nên cô đã bộc lộ một cách mãnh liệt vào bài thơ Kiếp Nào Có Yêu Nhau (sau in trong tập Lang Thang xuất bản ở Paris vào năm 1960). Năm 2006 gặp Hoài Trinh ở Cali., tôi hỏi cô chuyện ấy thực hư như thế nào, cô chỉ cười cười để tôi muốn hiểu sao thì hiểu. Cô tặng tôi cuốn sách VĂN NGHIỆP và CUỘC ĐỜI MINH ĐỨC HOÀI TRINH và đĩa Thơ được phổ nhạc của cô, trong đó có hai bài Kiếp Nào Có Yêu Nhau và Đừng Để Em Một Mình do Phạm Duy phổ nhạc.

Cái đĩa thơ phổ nhạc của Hoài Trinh làm cho tôi nhớ lại: Khoảng năm 1958, nhạc sĩ Phạm Duy vấp phải một chuyện tình “bất bình thường”.  Nếu không được ca sĩ Thái Hằng – vợ ông, ra tay giải cứu thì “tóa hoạ” rồi.  Ông không được gặp người yêu ông nữa, buồn tình ông mượn bài thơ Kiếp Nào Có Yêu Nhau của Hoài Trinh để phổ nhạc và gởi cho người tình hát. Trong lúc dư luận báo chí ở Sài Gòn lúc ấy tiếc cho “Chuyện tình bất bình thường” của ông, thì trên làn sóng Đài Phát thanh Sài Gòn vang lên tiếng hát Khánh Ngọc với bài hát Kiếp Nào Có Yêu Nhau. có thể xem như một thách thức dư luận của ông. Giọng Khánh Ngọc mạnh mẽ, uất nghẹn, đau đớn, tiếc nuối, quyết liệt nhưng cũng không giấu được sự sợ hãi:


Ðừng nhìn em nữa anh ơi
Hoa xanh đã phai rồi
Hương trinh đã tan rồi
Ðừng nhìn em, đừng nhìn em nữa anh ơi
Ðôi mi đã buông xuôi, môi nhăn đã quên cười
Hẳn người thôi đã quên ta
Trăng Thu gẫy đôi bờ
Chim bay xứ xa mờ.
Gặp người chăng, gặp người chăng, nhắn cho ta
Hoa xanh đã bơ vơ đêm sâu gối ơ thờ.
Kiếp nào có yêu nhau
Thì xin tìm đến mai sau
Hoa xanh khi chưa nở
Tình xanh khi chưa lo sợ
Bao giờ có yêu nhau
Thì xin gạt hết thương đau
Anh đâu anh đâu rồi
Anh đâu anh đâu rồi
Ðừng nhìn nhau nữa anh ơi
Xa nhau đã xa rồi, quên nhau đã quên rồi
Còn nhìn chi, còn nhìn chi nữa anh ơi
Nước mắt đã buông suôi, theo tiếng hát qua đời
Ðừng nhìn nhau nữa.. anh ơi!   
 

Những ai được nghe K.N. hát lúc ấy liền thông cảm cho “chuyện tình bất bình thường” của hai người. Sau “biến cố” ấy tôi không còn nghe K.N. hát ở Sài Gòn nữa. Báo chí cho biết cô đã xuất ngoại. Thật oái oăm. Nhờ “chuyện tình bất bình thường” ấy mà tân nhạc Việt Nam có thêm được một bài ca bất hủ Kiếp Nào Có Yêu Nhau. Không ngờ cái thiện và cái ác đã “tương sinh”.

Chuyện ấy bắt đầu từ những cô gái Huế, nói đúng hơn là từ các cô nữ sinh Đồng Khánh Huế. Năm 1953, một buổi tối nghệ sĩ Vũ Đức Duy đưa nhạc sĩ Phạm Duy đến thăm một gia đình có họ hàng với Đức Từ Cung – thân mẫu của Cựu hoàng Bảo Đại.

Gia đình thân quen của Vũ Đức Duy rất hân hạnh được đón tiếp tác giả của bài Tình Ca vừa mới ra đời và là một thành viên của ban Hợp ca Thăng Long đang nổi tiếng ở Sài Gòn.



NS Phạm Duy (ngồi) thời sau ngày Tình Ca ra đời. Ảnh TL của PD


Cuộc chuyện trò, đàn hát diễn ra giữa đêm hè huyền ảo tuyệt vời của xứ Huế. Giọng hát ấm áp, tài hoa, gợi tình của chàng trai trên ba mươi tuổi đẹp trai Phạm Duy đã làm cho các cô gái Huế được nghe Phạm Duy hát đêm đó yêu chàng say đắm. Các cô không giấu được tiếng nói thổn thức của con tim với chàng. Nhưng Phạm Duy đã có Thái Hằng, đã có con đầu lòng Duy Quang lên bốn năm tuổi nên chàng chỉ có thể đáp lại những người tình xứ Huế bằng âm nhạc mà thôi. Phạm Duy soạn bài Dạ Lai Hương để tặng Thu Vân và Dạ Thảo - hai người đẹp nổi tiếng của Huế lúc ấy[1]. Âm thanh của bài hát tạo nên một không gian mênh mông êm ả, lung linh, thủ thỉ tiếng nói của tình yêu, tình người và tình đời. Một bài hát tràn đầy hạnh phúc.


[…] Lung linh trăng lại về nữa
Cánh gió đưa, hương ngả đầu mây, phất phơ
Ðêm thơm không phải từ hoa
Mà bởi vì ta thiết tha tình yêu, Thái Hòa
Ðời ngon như men say, tình lên phơi phới
Ðẹp duyên người sống cho người
Ðời vui như ong bay, ngọt lên cây trái
Góp chung mật sống lâu dài
Nhịp bàn tay nhân gian ơi!
Nhịp bàn chân nhân gian ơi!

 


Các cô gái Huế đầu những năm sáu mươi thế kỷ XX. Ảnh của báo Life.


Rồi hơn mười năm sau, sau ngày chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ (1-11-1963), tôi hay đi nói chuyện với đồng bào về cuộc tranh đấu của Sinh viên Huế chống chế độ Ngô Đình Diệm. Các buổi nói chuyện đều được ca sĩ X.M. cháu ruột của bà Từ Cung đi theo hát giúp vui. X.M. xuất thân trong một gia đình hoạt động nghệ thuật Huế, đẹp, có giọng hát khỏe, cô nổi tiếng với bài hát ngoại quốc Tiger. Sinh viên tranh đấu Huế quý X.M. xem cô như một người “đồng chí” của Sinh viên. Sau đó, mỗi lần Phạm Duy ra Huế giới thiệu Trường ca Con Đường Cái Quan, Dân nhạc Việt Nam tôi đều mời X.M. tháp tùng hát minh họa cho các bài nói chuyện của Phạm Duy. Thế rồi trong dư luận của sinh viên cho biết Phạm Duy và X.M. phải lòng nhau.



Phạm Duy trong một khoang đò trên sông Hương (1965). Ảnh TL của PD.


Vào một buổi sáng ngồi ăn sáng và uống cà-phê ở phòng khách nhà Giáo sư Lê Văn Hảo tại cư xá Đại học 2 Lê Lợi, chúng tôi có ý không đồng tình về chuyện ông dan díu với X.M. Chúng tôi sợ sự dan díu ấy sẽ gây ra một dư luận không hay trong giới sinh viên Huế. Phạm Duy không trả lời chuyện đó có hay không. Ông lặng thinh coi như không có chuyện gì quan trọng cả. Một lúc ông cầm một tờ báo cũ và đứng dậy mở cửa vào toilette bên cạnh phòng khách. (Vì hồi ấy chưa có giấy vệ sinh như bây giờ). Chúng tôi ngồi chờ câu trả lời của ông. Dăm phút sau bỗng có tiếng đấm cửa toilette thình thình. Tôi tưởng ông bị sốc vì sự thẳng thắn của chúng tôi mà gặp chuyện không hay nên nhảy tới vặn hột xoài mở cửa toilette. Ông nhoài cái đầu tóc hoa râm ra bảo tôi:

-“Cho tớ tờ báo khác!”

Tôi không hỏi ông lấy thêm tờ báo làm gì mà xoay người lại với trên bàn lấy đưa cho ông một tờ báo khác. Tất cả mọi người nhìn theo một cách khó hiểu. Phạm Duy trong bộ bà-ba nâu từ trong toilette bước ra đặt lên bàn cà-phê một mảnh báo cũ trên ấy viết bằng bút dạ đen bài hát Tôi còn yêu tôi cứ yêu. Cái đầu đề bài hát như một lời thách thức “ông còn yêu ông cứ yêu, không ai cấm ông yêu được”. Câu trả lời của ông quá đủ. Chưa biết bài hát hay hay dở ra sao, nhưng trong ý nghĩ của mọi người, sự khâm phục tài sáng tác âm nhạc của Phạm Duy thay vào chỗ phiền trách ông.


Tôi còn yêu, tôi cứ yêu!
Tôi còn yêu, tôi cứ yêu!
Tôi còn yêu, mãi mãi mãi mãi...!
Tôi còn yêu...đời tôi còn yêu người,
Tôi còn yêu tôi
Cho dù tôi đã chết rồi
Cho dù ai đã giết tôi
[…]


Chưa thôi. Sau đó ông vào Sài Gòn một thời gian rồi gởi ra Huế cho tôi bản nhạc Tôi còn yêu tôi cứ yêu vừa được xuất bản với bức tranh bìa của Duy Liêm vẽ một cô gái nằm gối tay trên thảm cỏ non. Ai nhìn qua cũng liên tưởng đến X.M. ngay. Qua sự “va chạm” ấy tôi ngộ ra rằng: Phạm Duy yêu không ai ngăn cấm khuyên răn ông được điều gì. Ca sĩ Thái Hằng một người vợ được ông tôn là “Á thánh” cũng phải xem đó là một thực thể: Để cho ông được yêu tự do, ông có yêu ông mới có sáng tác mới. Khi ông “gặp nạn” thì chính bà ra tay “cứu”. Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, trong giới nghệ thuật Việt Nam xưa nay chưa từng có ai yêu và được yêu bạo như Phạm Duy và cũng chưa có tác giả nào được nhiều phụ nữ gợi hứng sáng tạo nên những tác phẩm hay như âm nhạc của Phạm Duy.  

Phạm Duy sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, hơn một phần ba cuộc đời ông sống ở Sài Gòn, hơn một phần ba sống ở ngoại quốc. Ông đi nhiều, yêu và được yêu cũng nhiều, kể cả người Pháp. Nhưng rồi qua trải nghiệm ông thấy người con gái Huế ông yêu là đẹp nhất, sâu sắc nhất. Trong một bài phỏng vấn, ông đã trả lời tôi rằng: “Từ khi biết Huế (1944) cho đến khi tôi đã yêu bà Thái Hằng rồi thành vợ chồng (1948), tôi vẫn ước mơ có một người tình xứ Huế. Con gái Huế, lẽ dĩ nhiên là đẹp rồi. Cái mà tôi thích nhất là người đàn bà xứ Huế còn giữ được nhiều nữ tính. Cái nữ tính ấy lại được nuôi dưỡng trong khung cảnh nên thơ của vùng có nhiều đền đài lăng tẩm núi Ngự sông Hương làm cho nó có một sức hấp dẫn mạnh đối với loại người có nhiều “đàn ông tính” như tôi. Theo tôi, không một nơi nào trên cái nước Việt Nam nầy có người phụ nữ được sống trong cái môi trường văn hoá thơ mộng sâu sắc như thế cả. Bởi vậy, Hàn Mặc Tử mới hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vỹ?” Có anh chàng văn thi nhạc sĩ Việt nào mà không ước mơ đến Huế, không ước mơ có một mối tình ở Huế?

Phạm Duy yêu Huế và ông đã được yêu. Những chuyện yêu không hay sẽ theo ông chôn sâu vào lòng đất. Bao giờ những tình ca có thật của ông còn được yêu thích, còn sống với núi Ngự sông Hương, thì những chuyện tình của ông với Huế sẽ trở thành tình sử. Bài viết nầy chưa phải sử xin gởi đến ông trước khi nó trở thành sử.


Theo Nguyễn Đắc Xuân (khamphahue.com.vn)      


[1] Lúc ấy ở Huế có câu  nói dân gian: “ Bến Ngự âm thầm tình Nhơn-Phú; An Cựu mơ màng bóng Thảo Vân, (Dạ Thảo và Thu Vân).

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Chiều ngày 21/11, hoạ sỹ Phan Ngọc Minh đã tổ chức triển lãm cá nhân mang tên “ Minh & Heritages” (Minh và Di sản) được diễn ra tại khách sạn La RéSidenCe, số 5 Lê Lợi, Huế.

  • Chiều ngày 16/11/2009, ông Ngô Hòa- Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã đi kiểm tra tiến độ thi công Khu tưởng niệm anh hùng dân tộc Hoàng đế Quang Trung tại Núi Bân thuộc phường An Tây, thành phố Huế.

  • Chiều ngày 14/11, tại Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế, 26 Lê Lợi, đã diễn ra triển lãm tranh thiếu nhi mang chủ đề Tôn sư trọng đạo của học sinh trường THCS Chu Văn An nhằm chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11.

  • Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Việt Nam trong hai ngày 13- 14/11, sáng ngày 14/11, Thủ tướng Cộng hòa Pháp Francois Fillon cùng phu nhân và đoàn đại biểu cấp cao đã đến thăm và làm việc tại tỉnh Thừa Thiên Huế.

  • Chiều 05/11/2009, Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế  phối hợp với  Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh tổ chức khai mạc phòng tranh của tác giả Hoàng Xuân Định, tại 26 Lê Lợi.

  • Kỷ niệm 10 năm Đại hồng thuỷ Thừa Thiên Huế 1999- 2009, Tạp chí Sông Hương số 249 tháng 11/2009 thực hiện Chuyên đề LỤT. Chuyên đề nhằm tưởng nhớ niệm các nạn nhân đã bị trôi trong cơn nước dữ, nhắc lại những điều khủng khiếp không thể nào quên mà thiên nhiên đã bạo hành; nhắc lại để thêm tri ân nghĩa đồng bào, tri ân những tấm lòng nhân ái, hào hiệp còn mãi quanh ta... của các tác giả đã từng chứng kiến trận lũ lịch sử 1999. Ngoài ra còn có các bài viết mới của các tác giả nhà văn, nhà thơ và các nhà nghiên cứu...

  • Chiều ngày 28/10, tại Toà soạn Tạp chí Sông Hương, Chi hội Nhà báo Tạp chí Sông Hương đã tổ chức đại hội nhiệm kỳ 2009- 2011.

  • Chiều 13/10, Văn phòng đại diện Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam tại Huế đã tổ chức lễ ra mắt tại Nhà Văn hoá thành phố.

  • Hướng đến kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội, chiều ngày 10/10, tại số 4 Hoàng Hoàng Hoa Thám, Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ Thuật Thừa Thiên Huế phối hợp với Phòng Văn hoá và Thông tin thành phố Huế đã khai mạc phòng triển lãm tranh Cảm xúc từ những Cố Đô.

  • Chiều ngày 6/9, tại Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Ban chỉ đạo Phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức họp báo về Hội nghị tổng kết Phong trào xây dựng làng văn hoá giai đoạn 1997-2009 và tuyên dương làng văn hoá tiêu biểu Thừa Thiên Huế năm 2009, Hội nghị sẽ diễn ra vào ngày 8/10 tại Trung tâm Văn hoá Thông tin tỉnh.

  • Chiều ngày 21/9, Hội Liên hiệp VHNT, Hội Nhà Văn tỉnh Thừa Thiên Huế đã phối hợp với  Trung tâm giao lưu Văn hoá Nhật Bản tại Việt Nam tổ chức “Hội thảo Văn học Nhật Bản” tại trụ sở Hội LH VHNT, 26 Lê Lợi, Huế.

  • Chiều ngày 19/9, tại số 4 Hoàng Hoa Thám, Hội Liên hiệp VHNT Thừa Thiên Huế, Phòng Văn hoá và Thông tin TP Huế và hoạ sỹ Lê Duy Đoàn cùng phối hợp tổ chức phòng triển lãm tranh sơn dầu mang tên “Lạ”.

  • Sáng ngày 7/9, tại thành phố Huế, Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đã tổ chức khai giảng Lớp tập huấn, bồi dưỡng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật cho đội ngũ làm công tác lý luận, phê bình và chỉ đạo, quản lý văn hóa nghệ thuật ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên.

  • Sáng 6/9, tại trụ sở 130/7 Đặng Thái Thân, TP Huế, Trung tâm Phát triển Cộng đồng và Công tác Xã hội ( tên viết tắt là CODES) đã công bố thành lập và tổ chức lễ công bố sứ mệnh CODES,  đồng thời ký kết hợp tác giữa CODES với các đối tác: Trung tâm vì sự phát triển miền núi (CSDM) Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu Quản lý và Phát triển vùng duyên hải (CMD) thuộc trường ĐH Khoa học Huế, Công ty Cổ phần truyền thông Nghệ thuật hiện đại VN (VMA) ở Hà Nội,Tạp chí Sông Hương,  trường Tiểu học Kim Long (Huế).

  • Chào mừng kỷ niệm 64 năm Quốc khánh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2/9 (1945- 2009) và 40 năm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chiều ngày 1/9, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Hội Mỹ thuật, Hội nhiếp ảnh Thừa Thiên Huế, Phòng Văn hoá Thể thao thành phố Huế tổ chức triển lãm Mỹ thuật Mùa thu 2009 tại số 4 Hoàng Hoa Thám và phòng trưng bày các tác phẩm Nhiếp ảnh đạt giải trong 30 năm qua tại 26 Lê Lợi, Huế.

  • Ngày 13/8/2009, tại Nhà hát Duyệt Thị Đường, Đại Nội, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và Viện Di sản Thế giới UNESCO – Đại học Waseda đã tổ chức Hội thảo Quốc tế về Nghiên cứu Bảo tồn Di tích Huế và Dự án Phục nguyên Điện Cần chánh.

  • Tối ngày 8/8, tại Nhà Thiếu nhi Huế, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ Thuật, Sở Giáo dục và Đào tạo- Thừa Thiên Huế, Phòng Văn hoá Thông tin, Phòng Giáo dục và Đào tạo - thành phố Huế cùng đơn vị sở tại đã phối hợp tổ chức kỷ niệm 30 năm thành lập Câu lạc bộ sáng tác văn học Sao Khuê (1979- 2009) và Trao giải sáng tác văn thơ thiếu nhi 2009.

  • Ngày 25/7, tại 197 đường Âu Cơ, Ban biên tập Tạp chí Sông Hương đã tổ chức buổi gặp mặt thân mật cộng tác viên tại Hà Nội.

  • Sáng ngày 16/7, Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt đã phối hợp với Hội Âm nhạc Thừa Thiên Huế tổ chức buổi gặp mặt các nhạc sỹ nhằm trao đổi về công tác bảo hộ bản quyền các tác phẩm âm nhạc.

  • Tối ngày 5/6, tại xã Quảng Ngạn, UBND huyện Quảng Điền, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tổ chức đêm công diễn tác phẩm và bế mạc Trại sáng tác Văn học Nghệ thuật Quảng Điền.