Khi bàn về Nhã nhạc người ta thường chú trọng nhiều đến thành phần, biên chế các loại dàn nhạc và bộ phận nhạc không lời do các nhạc cụ diễn tấu, mà ít đề cập đến một bộ phận quan trọng của Nhã nhạc là thể loại nhạc có lời.
Đội Nữ Nhạc cung đình. (Nguồn: Trung tâm BTDT Cố đô Huế)
Đó là những khúc hát được quy định nghiêm ngặt trong từng lễ thức của những đại lễ trong triều đình. Có đến hàng trăm khúc hát có lời ca bằng chữ Hán mang nội dung phù hợp với từng cuộc tế lễ do Hàn Lâm Viện của triều đình biên soạn.
Khâm Định Đại Nam Hội điển Sử lệ gọi những khúc hát quy định trong các loại nhạc lễ cung đình là Nhạc chương. Mặc dù có dàn nhạc tấu theo, nhưng thực chất, đây là thể nhạc Hát, dàn nhạc chỉ giữ vai trò đệm, như ý kiến của ông Cadière trong lễ Tế Giao năm 1915 đăng trên tạp chí BAVH. Vì vậy, một số tài liệu còn gọi là bài hát, ca khúc, hay ca chương... Nhưng để nhấn mạnh về chức năng, tính đặc thù thể loại, (cũng như không gian và phạm vi diễn xướng duy nhất của chúng là các đại lễ cung đình), thì Nhạc chương thuộc về một thể loại hát lễ thuần túy chốn triều đình - Nhã ca,[1] mà tính chất, chức thể tựa như loại Tụng nhạc, một trong năm loại nhạc cung đình thời Tây Chu ở Trung Hoa. Hoặc có thể, có giềng mối với lối Nhạc Phủ đời Hán, Ngụy , được Lê Quý Đôn chú giải như sau: “Quan nha có chức vụ chọn lấy những bài thi ca cho phổ vào tiếng đàn tiếng sáo. Người đời sau gọi những thi ca được quan chức trong Nhạc phủ chọn lấy bảo tồn là Nhạc phủ. Đầu tiên Hán Vũ Đế định lễ nghi tế Giao và lập ra Nhạc phủ, cho Lý Diên Niên làm Hiệp luật Đô úy. Nhạc phủ bắt đầu lập ra từ đấy”. [2]
Tuy nhiên, đó là giềng mối xa, với Trung Hoa; còn giềng mối gần, vẫn có người cho rằng Nhạc chương gần với lối tán, tụng trong âm nhạc nhà Phật. Mặc dù vậy, quan niệm nhạc cung đình Việt Nam phỏng theo Nhã nhạc triều Minh bên Tàu, đã trở thành nếp trong mọi suy nghĩ về văn hóa cung đình, nên nhiều người vẫn tỏ ra nghi ngờ nhận định này. Theo chúng tôi biết, Âm nhạc Phật giáo không đơn giản chỉ là tụng, niệm như hiện nay. Bằng những sử liệu về âm nhạc Phật giáo Việt Nam xuất phát từ nền nghệ thuật Tiên Sơn, Lê Mạnh Thát cho chúng ta thấy lễ nhạc Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ 5 đã có một thể chế nhạc lễ bao gồm “ca tán tụng vịnh”. Trong đó, cũng có thể truy tìm mối quan hệ giữa Ca vịnh với Nhạc chương, Tán tụng với Nhạc khí, và sự kết hợp : “Bối là một thứ lễ nhạc do phổ tán bằng đồ ống đồ dây mà thành, còn nhạc thì do tấu bằng đồ kim đồ đá mà nên”.[3]
Nếu không muốn nói Nhạc chương là linh hồn của cuộc lễ, thì cũng phải thừa nhận chúng là nơi chứa đựng và chuyển tải một phần nội dung chủ yếu của từng lễ thức. Chúng ta đều biết rằng, âm nhạc cung đình chủ yếu để phục vụ lễ lạc, triều nghi. Vì thế, bộ phận nhạc lễ là quan trọng nhất. Trong 7 loại nhạc lễ cung đình triều Nguyễn, thì hơn 5 loại đã là nhạc lễ nghi, mà bản thân tên gọi của chúng đã bao hàm nội dung ý nghĩa, gắn liền với từng cuộc lễ : như Giao nhạc là nhạc dùng trong lễ tế Nam Giao, Miếu nhạc là nhạc dùng trong lễ Tế Miếu v.v... Trong mỗi loại nhạc đều được quy định một hệ thống Nhạc chương với bài bản riêng, mà nội dung của mỗi bài đều phải ứng với nội dung của mỗi lễ thức được sắp xếp theo trình tự cuộc lễ.
Trong Giao nhạc, Nhạc chương gồm một hệ thống 9 bài (nhã) ca, do ca sinh và nhạc sinh diễn tấu trong 9 lễ thức khác nhau.
Hệ thống Nhạc chương của Giao nhạc được bộ Lễ quy định là Thành chương, các chi chương[4] đều mang chữ Thành. Lễ tế Nam Giao dưới thời vua Minh Mạng, 9 chi chương được diễn tấu trong 9 lễ thức sau:
1. Hiển thành chi chương, tấu trong lễ Phần Sài.
2. Cảnh thành chi chương, tấu trong lễ Thượng hương
3. An thành chi chương, tấu trong lễ Nghinh thần
4. Gia thành chi chương, tấu trong lễ Dâng ngọc, lụa
5. Mỹ thành chi chương, tấu trong lễ Sơ hiến
6. Thụy thành chi chương, tấu trong lễ Á hiến
7. Vĩnh thành chi chương, tấu trong lễ Chung hiến
8. Tuy thành chi chương, tấu trong lễ Tống thần
9. Hựu thành chi chương, tấu trong lễ Vọng liệu
Biểu diễn nhã nhạc tại quảng trường Ngọ Môn. (Ảnh: Báo ảnh VN)
Các chi chương qua các đời vua có thể có sự thay đổi một vài chi tiết không đáng kể. Cho đến năm 1915, dưới đời vua Duy Tân thứ 9, hệ thống Nhạc chương trong lễ Tế Giao cũng chỉ thay đổi như sau đây:
1. An thành chi chương, tấu trong lễ Nghinh thần
2. Triệu thành chi chương, tấu trong lễ Dâng ngọc, lụa
3. Tiến thành chi chương, tấu trong lễ Dâng thịt tế
4. Mỹ thành chi chương, tấu trong lễ Sơ hiến
5. Thụy thành chi chương, tấu trong lễ Á hiên
6. Vĩnh thành chi chương, tấu trong lễ Chung hiến
7. Doãn thành chi chương, tấu trong lễ Triệt soạn
8. Hi thành chi chương, tấu trong lễ Tống thần
9. Hựu thành chi chương, tấu trong lễ Vọng liệu
Khi lễ hoàn tất, vua từ đàn trung xuống trở về Trai cung, Đại nhạc cử và ca sinh tấu khúc Khánh thành để tỏ sự vui mừng việc tế Trời đã hoàn thành.
Như vậy, Nhạc chương là một thành tố quan trọng trong các Đại lễ cung đình triều Nguyễn. Nhạc và Lễ gắn bó như hình và bóng, không những chuyển tải một phần nội dung chủ yếu của cuộc lễ, mà còn tạo ra nhịp điệu cho tiến trình bởi sự phối hợp nhịp nhàng giữa các thành tố.
Nhạc lễ nói chung, Nhạc chương nói riêng, với chức thể đặc hữu, đã gắn kết các thành tố cuộc lễ thành một tổng thể nguyên hợp mang tính sân khấu hóa cao. L. Cadière, người chứng kiến lễ tế Nam Giao năm 1915 có ghi chép về sự phối hợp giữa Nhạc chương với các động tác hành lễ của vua và các thượng thư như sau : “Các đợt cúng bái của vua va các quan cúng tế đều cử cùng với nhạc xướng: lời xướng đầu, một lạy ; lời xướng thứ hai, đứng dậy ; lời xướng thứ ba, lạy xuống ; lời xướng thứ tư, đứng dậy và tiếp tục như thế cho đến lời xướng thứ tám cùng với bốn lạy và bốn lần đứng dậy. Các hướng dẫn lễ nghi đều có ghi trong sách lễ mà tôi được mượn”... Vì tính chất đặc biệt này, tác giả đã chú thích, nhắc lại nhiều lần trong bài mô tả của mình, chẳng hạn ở giai đoạn khác của trình tự cuộc lễ: “Câu hát đầu vua bước đến chỗ tế lễ; câu hát thứ hai : vua quỳ ; câu hát thứ ba : vua cất thẻ ngọc vào trong áo ; câu hát thứ tư, năm, sáu : vua dâng lễ ngọc và lụa ; câu hát thứ bảy : vua lấy thẻ ngọc ra và ba câu tiếp : người ta lại đặt các hộp lên bàn thờ ; câu hát thứ mười một : vua lạy ; câu hát thứ mười hai : vua đứng dậy”...[5]
Các chi chương tấu trong các lễ thức cũng không phải tùy tiện, mà do bộ Lễ quy định. Lời ca của các chương khúc (chi chương) này phải phù hợp với nội dung, ý nghĩa của mỗi lễ thức, được viết bằng chữ Hán theo thể thơ Đường luật, mỗi câu gồm 4 chữ.
Trong một cuộc lễ, các thể thức hành lễ có thể lặp lại nhau, nhưng các chương khúc thì mỗi lễ thức đều có một lời ca khác nhau và mỗi cuộc lễ có khoảng 6 - 10 bài. Sách Khâm Định Đại Nam Hội điển Sử lệ có chép lại toàn bộ hệ thống Nhạc chương với tổng số là 126 chi chương. Các chi chương được đánh số và phân thành 3 nhóm nội dung : Nhóm 1 : 79 ; nhóm 2 : 22 ; nhóm 3 : 25. Toàn bộ hệ thống Nhạc chương gồm126 chi chương đặt trong 10 tổ hợp chương mang 10 chữ sau : Hòa, Thành, Bình, Phong, Thọ, Huy, Văn, Phúc, Hy, Khánh.
Giao nhạc được quy định diễn tấu tổ hợp chương có chữ Thành. Tuy vậy, không phải chỉ gồm 9 chi chương tấu trong tế Giao đã nêu ở trước, mà có đến 17 chi chương có tên gọi. Nếu kể thêm những chi chương trùng tên nhưng khác nội dung thì phải lên đến 35 bài. (Tổ hợp chương mang chữ Hòa trong Miếu nhạc cũng có tình trạng tương tự : 10 chi chương = 36 bài.) Chi chươngThụy Thành tấu trong lễ Á hiến và chi chương Hy Thành tấu trong lễ Tống thần của tế Nam Giao năm 1915. Tập san Những Người Bạn Cố Đô Huế (B.A.V.H) chép lại chi chương này, có kèm theo chú thích, dẫn giải như sau:
“Các hình thức đã làm xong, chúng ta rất vui mừng. Các vị thần lên cao, trăm anh linh trí tuệ đưa tiễn cung kính!
Các vị thần để lại cho chúng ta bằng sự bảo vệ uy quyền của các ngài một nền thịnh vượng vĩnh viễn !”...
“Bài tấu hi thành chương gồm tám câu. Cách lạy của vua theo nhịp như : câu đầu : Vua lạy ; câu thứ hai : vua đứng dậy và tiếp như thế.” [6]
Rất tiếc các sử liệu không để lại bản ký âm của Nhạc chương. Theo Gs. Trần Văn Khê trong Sơ lược Âm nhạc Truyền thống Việt Nam cho biết G. de Gironeourt chỉ ghi rằng trong lúc tế Nam giao, người ta nghe lập đi lập lại 3 nốt mi, sol, la, trên đó bài hát trở đi trở lại chậm rãi và nhấn mạnh như một đoạn kết bài nghiêm của một cuộc tế lễ trang trọng. Theo Nguyễn Đình Sáng trong luận văn Đại học lí luận âm nhạc “ Khảo sát Nhạc Lễ cung đình Huế”, (người đã tiếp xúc với ông La Đăng và ký âm lại bài Mỹ Thành) thì “âm nhạc của ca chương Mỹ Thành được xây dựng trên một trục cố định theo công thức : Mỗi ca từ ứng với một ô nhịp và phần luyến âm tùy theo lời ca để có thể điều chỉnh giai điệu cho phù hợp...toàn bộ ca chương có 16 câu nhạc (ứng với 16 câu thơ) nhưng thực ra đều được phát triển trên 2 câu nhạc chính” (câu 1, 2).
Trong lễ tế Giao được quy định tổ hợp chương mang chữ Thành, còn ở lễ tế Miếu lại được quy định tổ hợp chương mang chữ Hòa, lễ tế Xã Tắc là chữ Phong, tế Văn Miếu là chữ Văn, lễ Đại triều là chữ Bình v.v...mà cuộc tế lễ nào cũng không dưới 5 chi chương được liên kết trong một tổ hợp của Nhã nhạc triều Nguyễn: Dàn nhạc - Ca chương - múa Bát dật.
Các vấn đề về nghệ thuật, tổ chức của thể ca hát này sử liệu hầu như không đề cập. Tổng hợp các văn bản về việc xin trang cấp y phục chép trong Khâm Định Đại Nam Hội điển Sử lệ, chúng tôi chỉ biết ngoài nhạc sinh, vũ sinh, thì ca sinh chuyên thể hiện Nhạc lễ trong triều có khoảng 40 người.
Được biết, năm 1960 chính quyền miền Nam cũ có tổ chức tế đàn Nam Giao. Có 2 chi chương trong hệ thống Nhạc chương mang chữ Thành được phục hồi với gần 40 ca sinh diễn xướng. Đến nay, chỉ hơn 40 năm, nhưng ở Huế, chỉ còn một người trong số ca sinh ngày trước là ông La Đăng, còn nhớ được giai điệu 1 bài. Đó là chi chương Mỹ Thành được hát trong lễ Sơ hiến của Tế Giao.
Không như các loại nhạc cung đình khác, Nhạc chương với chức thể đặc thù: về nội dung của lời ca ; lời bằng chữ Hán ; không độc lập về thể thức, và có thể, âm điệu mang tính ngâm ngợi, tế tụng theo kiểu giai điệu hóa lời thơ... chỉ tồn tại bó hẹp trong một không gian diễn xướng duy nhất là tế lễ triều đình, và hẹp hơn nữa là cúng tế dòng tộc, tổ tiên của nhà Vua... Vì thế, khi triều Nguyễn với ý thức hệ Tống Nho cùng với cơ tầng văn hóa của nó bước vào giai đoạn suy thoái, âm nhạc cung đình ngày càng mất dần môi trường diễn xướng, một số loại thể phù hợp với cơ chế dân gian thì được lưu truyền, gìn giữ, còn Nhạc chương - một thể tài chính thống, bác học 100% cung đình thì sớm tàn lụi.
CHÚ THÍCH:
[1] Lê Quý Đôn. Vân Đài Loại Ngữ. Sđd, Tập 2, quyển 6, tr. 139
[2] Lê Quý Đôn : Vân Đài Loại Ngữ. Sđd, Tập 2, Quyển 5, tr. 124.
[3] Lê Mạnh Thát : Lịch sử Âm nhạc Việt Nam. Nxb Tp Hồ Chí Minh, 2001. tr. 295.
[4] Khi hành lễ, quan Thông tán thường xướng những chương khúc cụ thể là chi chương. Ví dụ: ” Doãn thành chi chương!” hoặc “Hàm hòa chi chương !”... Vì vậy, khi gọi tên các bài cụ thể đó, chúng tôi chủ trương dùng chữ Chi chương, hoặc đôi lúc là chương khúc.
[5] L. Cadière : Tế Nam Giao - Nghi lễ tế. B.A.V.H, tập 2-1915, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 106,108,112
[6] L. Cadière : Tế Nam Giao-Nghi lễ tế. Sđd , tr. 121, 122
----------------------------------------------------------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ. Quyển 96-99. Nxb Thuận Hoá, 1996
Những người bạn Cố đô Huế (BAVH).Tập1-6, Nxb Thuận Hoá, 1998
Lê Quý Đôn. Vân đài loại ngữ. Nxb Văn Hoá- Thông tin, 1995
Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề. Những Đai lễ và Vũ khúc của vua chúa Việt Nam. Nxb Hoa Lư. Sài gòn, 1968
Trần Văn Khê. Sơ lược Âm nhạc truyền thống Việt Nam. ĐH Nghệ thuật Huế 1996 (bản dịch của tác giả).
Nguyễn Mạnh Thát. Lịch sử Âm nhạc Việt Nam. Nxb Tp HCM, 2001
Nguyễn Đình Sáng. Khảo sát Nhạc lễ cung đình Huế. Luận văn ĐH, Trường ĐHNT Huế, 1999.
Theo NetCoDo
Nằm trong chương trình phối hợp với các cơ quan, ban ngành, đoàn thể trong việc xã hội hóa hoạt động văn học nghệ thuật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế; Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Vườn Quốc gia Bạch Mã tổ chức Trại sáng tác văn học nghệ thuật chủ đề “Ấn tượng bạch Mã 2009”. Trại bao gồm một số hoạt động như: Triển lãm ảnh đẹp Bạch Mã, Thư pháp với môi trường, sáng tác thơ văn, nhạc, ảnh... Trại sáng tác văn học nghệ thuật diễn ra từ ngày 29/ 04 đến 01/ 05/ 2009...
Số 243 tháng 5/2009 của Tạp chí Sông Hương vừa phát hành với nhiều bài viết mới của các nhà văn, nhà thơ và các nhà nghiên cứu...
Nhân kỷ niệm 34 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, sáng ngày 25/04, đoàn Chi hội Nhà Văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế đã tổ chức đi thực tế sáng tác tại công trình xây dựng hồ Tả Trạch ở thượng nguồn sông Hương, thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ.
Với chủ đề "Nghề truyền thống Huế - Bản sắc và phát triển", Festival nghề truyền thống 2009 diễn ra trong bối cảnh kỷ niệm 110 năm cầu Trường Tiền và chợ Đông Ba, được tổ chức vào ngày 12 đến 14/06, nhằm tôn vinh các nghề truyền thống gốm sứ, sơn mài và pháp lam...
Mấy ngày gần đây giới hoạ sỹ ở Huế rất xôn xao về việc 12 bức tranh tranh nude ( khoả thân)của hoạ sỹ Nguyễn Kim Đính không được tham dự triển lãm, tranh của anh bị Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch ( VHTTDL) Thừa Thiên Huế xếp loại “ 12 tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Kim Đính có một số bức chất lượng nghệ thuật chưa cao, có nội dung không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam ” .
Tối ngày 7/4, Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế ( thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế) đã tổ chức chương trình biểu diễn nghệ thuật tại Nghinh Lương Đình và dạ nhạc tiệc trên thuyền cung đình.
Số 242 tháng 4/2009 của Tạp chí Sông Hương vừa phát hành với nhiều bài viết mới của các nhà văn, nhà thơ và các nhà nghiên cứu...
Chiều ngày 27/03, tại số 4 Hoàng Hoa Thám Huế, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, Hội Nhiếp ảnh Thừa Thiên Huế, Phòng Văn hóa Thông tin thành phố Huế phối hợp tổ chức triển lãm ảnh nghệ thuật “ Việt Nam, con người và đất nước tôi yêu”, gồm những tác phẩm ảnh đen, trắng về đất nước và con người Việt Nam của nghệ sỹ nhiếp ảnh Nhật Bản Takaiwa Shin.
Tối ngày 24/03, tại trụ sở hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Tạp chí Sông Hương, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã tổ chức buổi giao lưu, trao đổi giữa với nhà văn Võ Nhị Xuân Hà (Phó Ban công tác Nhà văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam) về văn học trẻ hiện nay.
Sáng ngày 27/03, tại Trung tâm Văn hoá Thông tin tỉnh Thừa Thiên Huế, Câu lạc bộ (CLB) UNESCO thơ Đường Việt Nam đã tổ chức Ngày hội thơ Đường Việt Nam lần thứ IV, với hơn 500 đại biểu từ các tỉnh, thành trong cả nước về dự.
Tối ngày 25/03, Trung tâm BTDT CĐ Huế đã tổ chức đêm thơ Nguyễn Khoa Điềm tại bến Nghinh Lương Đình, nhằm giới thiệu đến với công chúng yêu thơ chân dung thơ của một nhà thơ xứ Huế và những đóng góp của ông đối với dòng thơ hiện đại Việt Nam.
Trong không khí sôi nổi của các hoạt động chào mừng lễ kỷ niệm ngày giải phóng Thừa Thiên Huế (26/3/1975-26/3/2009), Trung tâm BTDT CĐ Huế sẽ tổ chức đêm thơ Nguyễn Khoa Điềm tại bến Nghinh Lương Đình.
Sáng ngày 22-3, nhận lời mời của tạp chí Văn hóa Quân sự (cơ quan thường trú Miền Trung-Tây Nguyên) và Hội Nhà văn Đà Nẵng, nhóm anh em văn nghệ sỹ Huế trên 20 người gồm các nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà thơ, nhạc sỹ và nghệ sỹ trình diễn... đã đến tham dự chương trình thơ, nhạc, triển lãm ảnh với chủ đề: “Hội ngộ Hải Vân Quan” tại đỉnh đèo Hải Vân.
Nhân kỷ niệm 140 năm ngày danh nhân Đặng Huy Trứ đưa nhiếp ảnh vào Việt Nam và khai sinh hiệu ảnh Cảm Hiếu đường, hiệu ảnh đầu tiên ở Việt Nam, kỷ niệm 56 năm ngày ngày truyền thống Nhiếp ảnh Việt Nam; Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật- Hội Nhiếp ảnh Thừa Thiên Huế và Phòng Văn hoá Thông tin thành phố Huế tổ chức khai mạc 2 phòng triển lãm ảnh "Gia đình Việt Nam xưa" và triển lãm các "Tác phẩm được giải thưởng qua thời kỳ trong suốt 30 năm qua".
Tập tranh Sông Hương của họa sĩ Gérald Gorridge, giảng viên Đại học Hình ảnh Angouleme, được ra mắt ngày 9/3 tại trụ sở Hội người Việt Nam tại Pháp ở Paris.
NGUYỄN KHÁC PHÊ (Đọc “Nửa vòng đất lạ buồn vui xứ người” của Bảo Cường) Tôi tin là Bảo Cường không tự ái khi bị (hay “được”) gọi là “nghệ sĩ hát rong”. Vì không dễ có được danh hiệu này. Người nghệ sĩ không hề bị trói buộc, chẳng hề ra giá “cát-sê”, gần gũi với nhiều tầng lớp công chúng ở mọi phương trời mới được tặng danh hiệu dân dã mà đáng yêu đó.
Sáng ngày 17 - 2 - 2009, Tạp chí Sông Hương phối hợp cùng Hội Nhà văn TT. Huế tổ chức buổi ra mắt tập truyện ngắn đầu tay của tác giả Nguyễn Đặng Mừng: Bóng chiều hôm (Nxb Hội Nhà văn, 2009). Đến dự có đông đảo các nhà văn, dịch giả, những người có uy tín trong hoạt động văn học nghệ thuật như: Trần Thùy Mai, Nguyễn Khắc Thạch, Tô Nhuận Vỹ, Bửu Ý, Thái Kim Lan, Đặng Tiến…
“…Mới ngày nào của buổi sáng hội ngộ mùa thu 2008, các bạn trẻ cùng nhau thảo luận về sân chơi cho văn chương trẻ, nhận ra sự bơ vơ mà như một lời tự tình rất thực đã so sánh: “Con nai vàng ngơ ngác của nhà thơ Lưu Trọng Lư còn có thảm lá vàng để dẫm lên, còn những bước chân tập tễnh vào chốn văn chương của những cây bút trẻ đã không biết dẫm lên đâu trong mênh mông cuộc sống xô bồ hiện tại”.
Có thể nói như vậy về cuộc “ra quân” cùng lúc của 14 họa sĩ trẻ tại cơ sở “Nghệ thuật không gian mới” ở thôn Lại Thế (xã Phú Thượng, Phú Vang) chiều ngày 21/12/2008.
Sáng sớm ngày 7-12-2008, giữa rừng thông bên núi Ngũ Phong, phường An Tây TP Huế đã diễn ra Đại lễ khánh thành đền thờ vua Trần Nhân Tông (TNT) - nhân kỷ niệm 750 năm ngày sinh vua TNT 7/12/1258-7/12/2008 và 700 năm ngày mất 1308-2008 do Sở Văn hóa - Thể thao và du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế long trọng tổ chức trong khu Trung tâm văn hóa Huyền Trân.