Nhà văn Võ Văn Trực: Người làng vẫn nhớ!

09:06 11/04/2019

Nhà văn Võ Văn Trực, người được mệnh danh là “Nhà văn của làng quê”, những câu chuyện ông viết ra khiến người ta không khỏi khâm phục. Đôi khi, nói đến các nhà văn, người ta nghĩ tới những con người bay bổng, lãng mạn, thi vị hóa cuộc đời này, nhưng Võ Văn Trực lại là con người của cuộc đời chân thực, lầm lũi và vạm vỡ khác thường.

Nhà văn Võ Văn Trực

Chuyện làng vây hổ

Tôi biết nhà văn Võ Văn Trực lần đầu tiên qua những trang ông viết về làng tôi, làng Tam Lễ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Làng tôi thời phong kiến rừng núi nhiều, hổ voi thường kéo về. Người dân không sợ hãi mà mỗi khi hổ về thì tổ chức bắt lấy con hổ đó. Trong cuốn địa chí về Nghệ An, nhà nghiên cứu Ninh Viết Giao có viết một đoạn về làng Tam Lễ và lễ hội vây hổ. Khi muốn viết về chính làng mình, tôi đã gặp nhà nghiên cứu Ninh Viết Giao, khi ấy ở khu tập thể Quang Trung, thành phố Vinh. Nhà nghiên cứu được xem như “thổ địa” cái gì cũng biết về xứ Nghệ ấy, thật bất ngờ, lại giới thiệu cho tôi: “Cháu hãy tìm bác Võ Văn Trực, bác ấy từng viết rất hay về lễ hội của làng cháu. Bác ấy đã sống nhiều ngày để tìm hiểu và viết về phong tục lạ của làng cháu”. Tôi rất bất ngờ, vì bác Võ Văn Trực từ lâu đã ra sinh sống ở Hà Nội, là nhà văn nổi tiếng, song đối với mảnh đất xứ Nghệ, dù xa xôi mà những phong tục tập quán gì bác cũng tỏ tường khiến chính người ở quê cũng phải kính nể như vậy.

Tôi ra Hà Nội, tìm đến báo Văn Nghệ. Bác Trực đậm người, tiếng nói rất hiền lành, khác hẳn khuôn mặt chữ điền nom góc cạnh của bác. Bác bảo tôi: “Các cháu lớn lên sau này ít biết chuyện đời trước. Bác đã tới gặp nhiều vị trưởng lão, các vị thợ săn, ngồi bên bếp lửa ghi chép tỷ mỷ cách thức dân làng bắt hổ thế nào. Phong tục quê cháu rất hay, hổ đến nhà thì không được sợ hổ, mà phải tìm cách bắt lấy nó!”.

Bác tặng tôi một cuốn sách của bác có nguyên bài viết về lễ hội vây hổ của làng tôi do bác viết. Tôi mừng không còn bút giấy nào tả xiết, vì hồi trước sách vở hiếm, lại chưa có internet như bây giờ. Cảm động nữa là bác lại bảo: “Bác cũng từng vào nhà cháu, được bà của cháu nấu nước chè xanh cho uống”. Lần gặp bác Võ Văn Trực để lại dấu ấn sâu đậm trong tôi, một người viết báo, viết văn mới ngoài 20 tuổi. Đó là hình ảnh một con người giản dị, thông hiểu những phong tục tập quán của các làng quê, tình yêu quê hương đất nước biến thành những trang viết, lưu giữ  thuần phong mỹ tục.

Ði viết là đi sưu tầm, nghiên cứu

Những nhà văn ở làng tôi, như nhà văn Lê Lân, nhà thơ Trần Ngưỡng đều dành cho nhà văn Võ Văn Trực những lời tri ân, bởi chính ông, một nhà văn từ huyện khác tới đã ghi lại đầy đủ chi tiết hơn cả những phong tục tập quán của quê tôi. Cùng làm việc nhiều năm với nhà văn Võ Văn Trực tại Báo Văn Nghệ, nhà văn Trần Thị Thắng nói: “Nhà văn Võ Văn Trực sống ở đời hết sức hiền lành, nhưng văn chương ông viết ra lại rất sắc sảo”.

Tôi còn nhớ một lần ghé báo Văn Nghệ lấy truyện ngắn tòa soạn một tờ báo đặt bác viết. Bác đưa cho tôi một bản thảo đã đánh máy sẵn, thậm chí nó hơi úa vàng. Bác cứ viết, cứ để sẵn trong một cái phong bì, nơi nào xuất bản, bác sẽ đưa cho in. Có thể nói, trong cái tủ cũ kỹ của bác luôn sẵn sàng những truyện chưa in bao giờ, được đánh máy ngăn nắp. Bác trái ngược với mẫu nhà văn viết ra cái gì là muốn in ngay, không in được ngay thì ăn ngủ không yên. Nhà văn Võ Văn Trực đưa cho tôi tập bản thảo tới hàng ngàn trang cũ kỹ, bảo: “Tôi có hàng chục cuốn sách chưa in, cũng không quan trọng, vì còn nhiều việc phải làm hơn”.

Quả nhà văn Võ Văn Trực có nhiều việc để làm. Ông sinh năm 1936 tại Diễn Châu, Nghệ An. Ông viết về nông thôn, nhưng xuất thân từ ngành ngoại giao, một người đọc rộng biết nhiều, song lại chọn mảnh đất “canh tác văn chương” là những vùng đất lề quê thói, thuần Việt nhất, xa xôi, hẻo lánh, nơi mà những phong tục xưa còn đó, nơi mà con người vẫn thuần hậu từ những câu chuyện về cố Bợ,chuyện về núi Hai Vai đi vào lòng người. Ông gợi cho tôi nghĩ về nhà văn Lão Xá, một nhà văn Trung Quốc rất giỏi ngoại văn, nhưng chọn cho mình lối viết kể chuyện dung dị về những người dân bình thường, những chủ nhân văn hóa của một dân tộc, hay M. Gorki, một nhà văn viết về cuộc sống lao động của người dân Nga.

Tôi hỏi nhà văn: “Bác làm lãnh đạo, phó tổng biên tập báo Văn Nghệ, thời gian đâu viết lách?”, nhà văn Võ Văn Trực bảo: “Bác chỉ nghĩ mình là một nhà văn bình thường như mọi nhà văn khác”.
 
Nhà văn Võ Văn Trực (trái) và nhà thơ Tế Hanh. Ảnh  Tư liệu


Ðời văn đời người

Đúng như nhà văn Trần Thị Thắng, người từng nhiều năm làm việc tại Báo Văn Nghệ cùng Võ Văn Trực nhận xét, nhà văn xứ Nghệ rất hiền lành trong đời thường để mà góc cạnh trong văn chương. Cuốn tiểu thuyết: “Vết sẹo và cái đầu hói” của nhà văn xứ Nghệ gây xôn xao một thời, khi nhiều người cho rằng nó đã phơi bày nhiều sự thật không ai dám viết về đời sống văn chương Việt Nam một thuở. Cũng là một  người trong nghề, nhà văn Trần Thị Thắng nói với phóng viên “Vết sẹo và cái đầu hói” là tiểu thuyết đáng đọc của Võ Văn Trực.

Nhà thơ Trần Hoàng Thiên Kim từng nhận xét về Võ Văn Trực: “Ông cương trực như chính cái tên cha mẹ đặt cho mình, luôn thẳng thắn và quyết liệt đấu tranh với những thói rởm đời dù ông hoàn toàn nhận thức được rằng, sự đấu tranh đó không phải lúc nào cũng mang lại cho ông những điều may mắn”.

Nhiều tác giả nghĩ rằng tác phẩm lớn, tác giả lớn phải viết về những đề tài khổng lồ, những chủ đề hấp dẫn, hoặc nhà văn thì viết theo đơn đặt hàng, viết kịch bản phim dài tập mưu sinh. Tôi nhớ mãi một lần ghé thăm bác Võ Văn Trực, nhà văn khoe với tôi một tập bản thảo, ước khoảng 800 trang đánh máy, chỉ về mỗi một thể loại là vè dân gian mà nhà văn sưu tầm được ở Nghệ Tĩnh. Nhà văn nói: “Các nhà văn không dám viết, các nhà báo có thể chưa dám nói về những tiêu cực này nọ, nhưng dân họ đã có ngay vè thời sự về ông nọ, bà kia, chuyện nọ, chuyện kia hết rồi. Vè dân gian không có vùng cấm cháu ạ!”.

Lẽ thường, nhà văn quý từng chữ của mình đã đành, nhưng nhà văn Võ Văn Trực còn quý từng chữ, từng lời của người dân quê, từ mẩu chuyện nhỏ, một vài bài thơ, một câu chuyện kể, đều được nhà văn ghi lại hết cả, chờ gom đủ tập và tìm được nhà xuất bản để in. Bác từng bảo tôi, với sự phấn khích và sự ngỡ ngàng thế này: “Khi tìm hiểu về làng của mình, bác cũng đã gom đủ tư liệu để in hàng vạn trang sách, thành một tổng tập văn học dân gian của một ngôi làng. Vậy đất nước ta bao nhiêu làng? Sẽ có bấy nhiêu tổng tập văn học dân gian đấy cháu ạ!”.
 

Nhà văn Võ Văn Trực, một nhà văn có sự nghiệp sáng tác trải rộng trên các địa hạt thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian đã qua đời ngày 5/4/2019 tại Hà Nội sau thời gian lâm bệnh.
Giải thưởng: Giải thưởng Hội văn nghệ Hà Nội với tập thơ Trăng phù sa năm 1983; Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội về thơ (1976 - 1980) và bút ký (1981 - 1985); Giải thưởng Bộ Giao thông Vận tải với tập bút ký Đèo lửa đèo trăng năm 1987.
Các tác phẩm tiêu biểu: Người anh hùng đất Hoan Châu (1976); Trăng phù sa (1983); Tiếng ru đồng nội (1990); Ngày hội của rạng đông (1978); Hành khúc mùa xuân (1980); Trận địa quê hương (1972); Chú liên lạc đội Xích vệ (thơ thiếu nhi - 1971); Câu chuyện những dòng sông (1983); Chuyện làng ngày ấy (1993); Hương trong vườn bão (1995); Vè Nghệ Tĩnh (in chung - 1962); Kho tàng ca dao xứ Nghệ (in chung - 1996); Đèo lửa đèo trăng (1987); Những dấu chân lịch sử (1985); Truyền thuyết núi Hai Vai (1990); Nắng sáng trời ngoại ô (1979); Những thi sĩ dân gian (1996).


Theo Trần Nguyễn Anh - TP

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • 1. Đời người trăm năm như nhau, nhà văn Tây hay ta gì gì ông Trời cũng chẳng ưu ái thêm ngày nào, vậy mà bên trời ấy thế hệ này đến thế hệ khác nảy nòi bao nhiêu tiểu thuyết gia lớn. Còn ta thì không. Tại sao?

  • Phan nhân 1972 ( Hồi ức K15 trường Chuyên Phan Bội Châu Nghệ Tĩnh - NXB Hội Nhà văn, tháng 7/2019 ) có lẽ là một trong những cuốn sách thú vị nhất về tuổi học trò mà tôi từng đọc.

  • Ngày 6-7, tại Hà Nội, buổi giao lưu ra mắt bút ký chính luận “Một thời Đông Bắc” của tác giả Vũ Mão và ký sự tiểu thuyết “Mãi mãi một thời Thiếu sinh quân” của nhà văn Ma Văn Kháng do NXB Kim Đồng tổ chức đã thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà văn, nhà phê bình văn học, các cựu học viên trường Thiếu sinh quân Việt Nam.

  • Ra mắt tập thơ đầu tay năm 2003, đến nay, nhà văn Nguyễn Văn Học đã xuất bản 15 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ.

  • Văn học Nhật Bản đang để lại dấu ấn sâu đậm và mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh dòng văn học kinh điển gắn liền với những tác giả có ảnh hưởng trên thế giới, thị trường xuất bản trong nước còn chứng kiến cuộc “đổ bộ” của những tác giả đương đại với số lượng tác phẩm không hề nhỏ.

  • Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, đối với người nghệ sĩ, cô đơn tự xác lập hay cô đơn do ngoại cảnh, đó đều là những đặc ân. Bởi nhờ có cô đơn làm chất xúc tác, cảm thức sáng tạo mới bùng vỡ nơi người nghệ sĩ...” - Nhà văn Đỗ Chu cũng từng bảo: “Nghệ sĩ cô đơn được càng tốt!”.

  • Từ ba nguồn tư liệu chính sử, dã sử và dân gian, các nhà văn đã có cơ hội bung trổ trí tưởng tượng và khả năng hư cấu để cho ra đời những áng văn chương sinh động, hấp dẫn viết về lịch sử. Hai tiểu thuyết lịch sử mới ra mắt công chúng là “Từ Dụ Thái hậu” của Trần Thùy Mai và “Thiên địa phong trần” của Hà Thủy Nguyên.

  • Nhân kỉ niệm 62 năm thành lập (17/6/1957 – 17/6/2019), Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt ấn bản mới tập truyện Dưới chân Cầu Mây của nhà văn Nguyên Hồng. Tập truyện gồm ba truyện đặc sắc dành cho thiếu nhi: Đôi chim tan lạcDưới chân Cầu Mây vàCháu gái người mãi võ họ Hoa.

  • NXB Hà Nội và Thư viện Hà Nội tổ chức lễ ra mắt cuốn sách “Thời cuộc và Văn hóa” của nhà báo Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội nhà báo Việt Nam

  • Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá Huy Cận là người đem tâm nguyện “làm bục nhảy đưa sự sống lên cao”. Nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu có dịp quần tụ nhớ về hồn thơ Huy Cận dịp 100 năm ngày sinh của ông.

  • “Ba năm tồn tại. Thời gian không dài. Nhưng kỷ niệm một thời niên thiếu tươi đẹp hào hùng trong gian khổ làm sao có thể quên!”. Sau hơn 70 năm, khi những mảnh ký ức bắt đầu mờ nhòa, nhà văn Ma Văn Kháng đã “gạn lấy chút sức lực còn lại”, “rờ rẫm nhớ lại những gì đã trải qua”, để tái hiện chân dung thế hệ “măng non cách mạng” giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp.

  • Nhà văn Trần Thùy Mai vừa ra mắt bộ tiểu thuyết lịch sử “Từ Dụ thái hậu” sau một thời gian dài im tiếng. Điều thú vị, cuốn sách đề cập đến lịch sử nhưng được tác giả viết bằng văn phong thuần Việt, với ngôn ngữ nhuần nhị để thu hút độc giả trẻ.

  • Có thể nói, tiểu thuyết gia hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam chính là nhà văn Hồ Biểu Chánh. Với kho tàng đồ sộ 64 cuốn tiểu thuyết, ông được mệnh danh là “người kể chuyện đời” đầy lôi cuốn và có cá tính.

  • Giữ một vị trí khiêm tốn trong đời sống văn chương, nhưng thể loại phi hư cấu thời gian qua vẫn đều đặn đến với độc giả. Thậm chí, nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn, được in hàng chục ngàn bản. Chỉ có điều, trong những bảng vàng văn chương trong nước, hiếm khi những tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu được xướng tên.

  • Nhân dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2019), NXB Kim Đồng vừa cho ra mắt tập thơ “Điện Biên chiến thắng, Điện Biên thơ” của Đại tá, nhà thơ Ngô Vĩnh Bình tuyển chọn và giới thiệu.

  • Sau 65 năm, những kinh nghiệm lịch sử, bài học quý giá từ chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn được học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Không chỉ là góc nhìn riêng của mỗi bên, việc hợp tác để khai thác khối tư liệu, tài liệu lưu trữ - di sản chung của hai dân tộc Pháp - Việt nhằm có thêm sự đối chứng, từ đó làm rõ hơn lịch sử.

  • “ĐIỆN BIÊN PHỦ: 13/3-07/5/1954” là cuốn sách chuyên khảo của Tiến sĩ, Đại úy người Pháp Ivan Cadeau. Cuốn sách cung cấp các tài liệu lưu trữ của Pháp về sự kiện Điện Biên Phủ và chiến tranh tại Đông Dương, trong đó có nhiều tài liệu chưa từng công bố tại Việt Nam.

  • Ngày 30/4/1975 mãi là một ký ức tồn tại sâu thẳm trong tâm trí của những người đã trực tiếp chứng kiến. Đặc biệt là nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh, người đã dành gần như cả cuộc đời cầm bút của mình để văn bản hóa lại những ký ức lịch sử về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một thời của dân tộc Việt Nam.

  • Với sự nhân từ, đức độ, Từ Dụ thái hậu được dân gian lưu truyền là người phụ nữ quyền lực có sức ảnh hưởng to lớn dưới triều nhà Nguyễn. Từ cảm hứng ấy, nhà văn xứ Huế Trần Thùy Mai đã viết Từ Dụ thái hậu - một trường thiên tiểu thuyết gồm 69 chương, có thể xem là tiểu thuyết lịch sử dạng “cung đấu” hiếm hoi của văn học đương đại.

  • Sáng ngày 22/4/2019, tại thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành buổi toạ đàm khoa học, giới thiệu công trình Nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học ở Nam Bộ thời kì 1865-1954.