Nhà văn và bốn trùm "Mafia"

09:26 19/07/2019

NGUYỄN HUY THIỆP

Người xưa cho rằng văn chương là gốc lớn của sự lập thân, là việc lớn của sự kinh tế (kinh bang tế thế). Song, cũng thấy rõ tính chất phiêu lưu hiểm nguy của văn chương, bởi thế người xưa cũng hết lời khuyên răn đe nẹt nó.

Ảnh: internet

Kinh Thánh bắt đầu bằng câu: Khởi thủy là Lời. Câu ấy đi kèm với cái lắc đầu của Chúa. Chúa cũng sợ rằng những hành động tiếp theo Lời không khéo chẳng hay ho gì.

Vậy sau khởi thủy là gì?

Không phải tự dưng trong văn chương, người ta đề cao chữ tâm. Tôi sẽ nói về điều này sau khi trình bày một vài điểm có vẻ như ít siêu hình hơn.

Trong việc làm văn, yếu tố quan sát giữ vai trò tích cực hàng đầu. Những nhà văn nhạy cảm và có tài năng, sau khi quan sát xong sẽ mệt kinh khủng. Sự lãnh cảm dửng dưng của thói đời, tính chất vô nghĩa của những việc làm, sự đểu giả trong nhân cách và chi chít những hình ảnh thối tha trong xã hội đập vào giác quan họ, họ không mệt sao được?

Sau khi quan sát, nhà văn ngẫm nghĩ để xử lý những lời nói dối và những lời nói thật, xử lý những hành động bất nhẫn và những cử chỉ cao thượng, xử lý của cải vật chất có thật và tinh thần lãng mạn mang màu sắc huyền ảo giống như cách ta lựa chọn thực đơn. Rất ít khi người ta chọn được thực đơn hợp vị. Tôi không tin là nhà văn nào cũng biết phân biệt chính xác tuyệt đối các dữ kiện mà anh ta thu lượm được sau quan sát. Hơn lúc nào hết, đây là lúc nghề nghiệp đòi hỏi trái tim nhà văn lên tiếng, tức là đòi hỏi chữ tâm trong lòng.

Việc ngẫm nghĩ về các dữ kiện thu lượm được sau quan sát đọng lại trong lòng nhà văn thành một thứ kiến thức rời rạc, lỏng lẻo. Chính Lê Quý Đôn đã nhận thấy điều này và điều ông thấy cũng chỉ mờ nhạt chẳng đáng tin cậy chút nào. Ông viết: Kiến thức do thanh khí sinh ra; bản nguyên của thanh khí có gốc ở trời và cũng có liên quan với thời, từ đó tan vào lòng người, rất kỳ diệu và sinh động. Cảm đấy, ứng đấy, rất lạ lùng, tinh vi, không hình dung được. Ông lưu ý thêm: Nhưng đọc sách nhiều có thể tìm ra mối của nó. Trong điểm lưu ý này của Lê Quý Đôn chứa đựng một phát hiện tài tình, đấy là quy luật văn đẻ ra văn. Nếu không gọi là quy luật, ta cũng có thể gọi đó là tình trạng phổ biến.

Hầu hết các nhà văn đều chịu ảnh hưởng của người đồng nghiệp đi trước. Tính chất truyền lửa hết sức khó chịu này của tri thức làm cho tất cả các nhà văn khi mới bắt đầu cầm bút đều ngượng chín người. Họ lố bịch lặp lại tư duy, cách xây dựng hình ảnh, thậm chí bố cục của ai đó. Guy de Maupassant cũng đã từng ca hát theo kiểu Flaubert, Gogol thì phải làm theo Puskin, còn Nguyễn Du ở Việt Nam thì dựa theo Thanh Tâm Tài Nhân là một người gần như không có tên tuổi gì ở mãi Trung Quốc.

Trong số tác phẩm của nhà văn thiên tài, chứa đựng một số câu văn nào đó làm mồi cho bọn hậu sinh. Việc đọc tác phẩm của họ hết sức quan trọng. Song, nếu đọc họ mà chỉ dừng ở hình thức nghĩa là không đọc. Lê Quý Đôn cũng lại nhận ra điều này nữa. ý kiến sau đây của ông rõ ràng và minh bạch hơn ý kiến trước nhiều: Vô luận cổ văn hay kim văn, tuy thể loại và câu văn có khác nhau, nhưng đại để đều phải có nội dung là đạo. Có nội dung ấy thì văn chương phát đạt, không thì hỗn loạn. Phải viết có nội dung thì văn chương thịnh, không như thế thì suy.

Vậy thế nào là đạo? Và đạo gì?

Ở phương Đông người ta coi sự kết hợp âm dương là đạo, sự kết hợp ấy được hình dung như con đường. Ta cũng có thể coi đạo như một mạch sống. Cảm nhận được mạch sống của thời, thể hiện được bằng con chữ, đấy là văn chương thần thánh.

Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, sống cách đây hơn trăm năm, người từng được nhân dân coi là thần nhân giải thích về đạo rất kiêu ngạo: Đạo là cái tâm mà ta sẵn có. Ta ở đây không phải là mọi người mà chỉ là một thiểu số cá nhân siêu việt có lời đạt (đây là chữ của Tô Đông Pha) mà thôi. Phương Đình coi lời đạt bởi có gốc. Ông giải thích: Ví như nước vậy. Nước ở biển khơi, tuy gò đảo chắn ở phía trước nhưng dòng không rối loạn. Ao vịnh rất xa, nhưng nguồn mạch thường thông. Được thế, là vì biển chất chứa sâu dày vậy. Tĩnh thì thể nghiệm nó ở thân, động thì tham cứu nó ở sự. Nó là cái mà ta nắm được, để làm trọn vẹn cho cái vốn có ở mình. Sau đó, tiếp xúc với sự vật thì nó bật ra. Không một lời nào là không bình dị, không một ý nào là không ngân vang....

Tất cả những điều trên đưa đến hệ quả sau đây: Văn chương hay bởi có lời đạt, lời đạt là bởi có đạo, đạo xuất phát từ tâm tức là trái tim người viết. Đã không viết thì thôi, chứ viết ắt phải có tâm, phải có tấm lòng. Nhưng vì sao người ta cứ phải cảnh tỉnh văn chương, vẫn cứ phải khuyên răn đe nẹt người viết. Trong văn chương chất chứa sự hiểm nguy gì?

Ở Trung Quốc người ta kể rằng khi xuất hiện chữ viết, thứ chữ trên mu rùa của vua Phục Hy thì Quỷ vương đã nhảy ra ôm mặt khóc ba ngày ba đêm rồi than: Thiên hạ từ nay đại loạn. Trong chữ viết, trong văn chương, chứa mầm mống loạn. Điều ấy là một thực tế và thực tế ấy đã được chứng minh từ xưa đến nay.

Chúng ta hãy thử hình dung một người sinh ra, làm lụng, ăn uống, sống hoàn toàn mê man trong những phép tắc lề luật, những khuôn khổ đạo đức tù đọng, hết ngày dài lại đêm thâu, thời gian cứ thế trôi đi, rồi chết. Tất cả những điều ấy diễn ra vô nghĩa, tầm thường, quanh quẩn, không so sánh, không đối chiếu... như thế sẽ kinh khủng như thế nào. Văn chương không cho phép người ta sống thế, văn chương thôi thúc, đánh thức tất cả tiềm năng con người trong họ và cảnh tỉnh rằng: Này! Sống thế nào thì sống, sống như thế khổ lắm, nhục lắm, sống như thế đểu lắm, khốn nạn lắm... Mau mau lên, sắp hết đời rồi. Sự thôi thúc ở văn chương dựng người ta dậy.

Sự thức tỉnh con người ở văn chương có ba bảy đường. Thường các nhà văn xoàng xĩnh lại đặt lòng tin ở ý nghĩa xã hội của văn chương nhiều hơn các thiên tài đặt lòng tin vào nó. Các nhà văn kém cỏi, không tự tin ở tài năng cá nhân mình nên ra sức ráo riết hoạt động xã hội để phản ảnh xã hội. Họ lớn tiếng và tin chắc rằng chỉ riêng mình mới có ý thức công dân, riêng mình mới có lương tâm mà thôi. Tôi đã thấy chuyện ấy xảy ra ở Hà Nội và các thị xã tỉnh lẻ. Thường các hoạt động xã hội của loại nhà văn này bao gồm việc tụ tập ở quán cà phê, xa lông và các cuộc hội thảo có nội dung chính là vấn đề nhân sự. Họ lảng vảng quanh các hội trường, nơi các nhà chính trị bàn bạc và liếc nhìn với ánh mắt lườm lườm. Việc phản ảnh xã hội của họ trong tác phẩm thường sốt sắng nhưng cũng thường sai be bét. Làm sao mà không sai be bét được? Ngay các nhà chính trị khi định ra chế, định ra chính sách, hướng dẫn chúng thực hiện chính sách đó, phấp phỏng theo dõi hàng ngày cũng còn không tin sự sai đúng, nữa là một người đứng ở ngoài cuộc?

Vấn đề ý thức công dân và lương tâm, tôi không muốn đề cập ở đây. Chúng ta đều có ý thức công dân và lương tâm cả thôi, nó có chạy đi đâu mà phải lo lắng sợ hãi.

Ở Việt Nam từ xưa đã lưu truyền một bài ca dao mà tất cả lời giải thích về nó đều chết cười:

Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi một xâu cá mè
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi ba bè gỗ lim
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi cục xôi Bờm cười....


Người viết bài ca dao kia vui tính diễn đạt tư tưởng ăn ngay, nuốt được vào bụng của mình hết sức tài tình. Tư tưởng ăn ngay, nuốt được vào bụng có thể ví dụ như tinh thần hiện sinh trong triết học phương Tây. Người viết bài ca dao đó quá hiểu xã hội phương Đông, một xã hội đầy thành kiến nặng nề, chất chứa nhiều ràng buộc, rất nhiều hứa hẹn thề nguyền nên chẳng tin gì hết. Nhà văn Nguyễn Văn Bờm, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam chỉ tin ở mình, chỉ tin hiệu quả ăn ngay và những tri thức anh ta có thể tiêu hóa được.

Tinh thần hiện sinh giúp con người nhận thức ra bản ngã mình. Song, tai hại của việc nhận thức ra bản ngã mình là dẫn đến những hành động bất nhân, bất lương, vị kỷ. Hơn lúc nào hết, ở đây văn đóng vai trò quan trọng. Vậy văn là gì? Phải chăng đấy là việc tự mình quan sát, xử lý dữ kiện, hành động ra sao hợp với mình và hợp với thời. Chu Tử, tức Chu Hy đời nhà Tống Trung Quốc quan niệm: Uy nghi đúng mực, nói năng phải lẽ, đều là văn. Quan niệm ấy hết sức chính xác, Lê Quý Đôn cũng quan niệm như thế nhưng văn hoa hơn: Mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú là văn của bầu trời... Núi, sông, cây cỏ là văn của đất... Lễ nhạc, pháp độ là văn của người. Lê Quý Đôn cũng lưu ý đừng nhầm lẫn đức với văn là hai. Như thế, văn hay tức là đức tốt, chẳng có gì mà bàn với bạc, đấy là xét về phương diện người viết.

Tính chất hết sức cá nhân trong các tác phẩm văn học lừng danh cảm động bởi chính tấm lòng thực như đếm của người viết. Khi người viết không sợ ngượng, bày tỏ mình và thông cảm được với mọi người thì gì thì gì, chúng ta cũng phải kính nể anh ta. Tại sao anh ta nói được điều mọi người không nói được, hơn nữa không một lời nào không bình dị, không một ý nào là không ngân vang thì chắc chắn ở đấy không phải có cái gì siêu phàm, ở đấy chắc chắn phải có ánh sáng.

Song, tôi vẫn cứ quay lại câu hỏi ban đầu: Vì sao người ta vẫn cứ phải cảnh tỉnh, đe nẹt văn chương?.

Khi đề cập đến tính chất cá nhân của những tác phẩm văn chương lừng danh tức là đề cập đến tính chất người của nó. Nó ở đây là hai: tác giả và tác phẩm. ở tác phẩm, độ lớn của nhà văn tính bằng khả năng đẩy tính cách nhân vật và các vấn đề nêu ra đến hết, thậm chí đến cái chết. Không phải tự dưng Đôtxtôiepxki lý giải sự thành công của ông là đã đẩy hết điều mà các ngài chỉ đẩy nửa chừng. Các ngài đây, tôi cũng không hiểu Đốt muốn ám chỉ đồng nghiệp của ông (tức là các nhà văn Nga cùng thời), ám chỉ các nhà chính trị hay là nhân dân Nga? Song, tôi biết rõ Đốt cũng sẽ gọi con người công chức trong ông là ngài, ông chồng chung thủy trong ông là ngài, thằng người nô lệ trong ông là ngài, tất cả con người đạo đức xã hội trong ông là ngài.

Việc đẩy hết, đẩy đến cùng nhân vật cũng như những vấn đề nêu ra trong tác phẩm đòi hỏi nhà văn phải trung thực với mình đến tận đốt xương sống. Việc trung thực đến mức dám thổi sáo bằng xương sống như trường hợp Maiacôpxki đã khiến ông trở nên vĩ đại, dầu rằng tài năng biểu hiện nghệ thuật của ông còn hạn chế. Ta biết cách dùng từ ngữ và cách văng tục trong thơ của Maiacôpxki chẳng hay hớm và sang trọng gì, nhưng không phải vì thế mà ông không phải là nhà thơ vĩ đại. Hành động tự gí súng vào trán bóp cò của ông hết sức nên thơ. Trước một tấm lòng như thế thì những người cầm bút khác chỉ còn cách lắc đầu, phải công nhận ông ta là thiên tài cho yên chuyện.

Dầu khâm phục Maiacôpxki, thâm tâm nhiều người cầm bút cũng chẳng muốn noi gương ông. ở phương Đông, người ta coi danh toàn thân vẹn mới là anh hùng kỳ tài. Ngày xưa, Triệu Tử Long cũng là một anh hùng như thế: lập chiến công, không hề bị thương tích, sau đó chết vì già. Song, Triệu Tử Long hành nghề võ. Còn nghề văn phức tạp hơn nhiều, không phải khoẻ cơ bắp là đã chiến thắng.

Khi đọc cổ văn, tôi sợ nhất câu: Hành hữu dư lực, tắc dĩ học văn tức là có làm dư sức thì mới học văn. Rất ít người có khả năng như thế, điều mà Măcxim Gorki diễn đạt có phần nào lỗ mãng và không lường hậu quả để lại. Ông nói: Nhà văn phải cao hơn điều mình viết. Nói như thế, nhà văn bị đẩy vào thế buộc phải chứng minh, phải chứng tỏ điều gì đấy (nhất là phải chứng minh, chứng tỏ với trí tưởng tượng của chính mình thì rất mệt, rất dễ quá sức). Phật Thích Ca cao siêu hơn nhiều khi Ngài truyền giảng: Ngươi đừng tin vào văn của ta, đừng tin vào cái tâm mà ta mong muốn, người hãy tin vào lòng mình. Đến như thế là tuyệt đối, là đến hư không. Phật trường tồn bởi rất nhiều những lời truyền giảng thế này.

Trong việc thức tỉnh con người, văn chương buộc phải đụng chạm đến dục vọng. Lý do hết sức đơn giản: bạn đọc không phải ai cũng biết đạo, hiểu đạo, hành đạo. Chất thú, chất bản năng trong con người nhiều vô kể. Mối hiểm nguy của nhà văn là khi đối mặt với dục vọng, không khéo anh sẽ thất bại ngay từ cú ra quân đầu tiên. Phật Thích Ca là đàn ông, khi biết đạo của mình có các tín nữ tham gia, Ngài hiểu rằng nó sẽ mất đi 50% màu nhiệm, mất đi 50% thời gian tồn tại, kiểu như nếu đạo tồn tại 6.000 năm thì thực tế chỉ còn 3.000 năm thôi. Thật đúng là Phật. Ngài vừa độ lượng nhân từ lại vừa hào phóng. Có tín nữ tham gia mà đạo mất 50% màu nhiệm Ngài vẫn như không, mất 50% thời gian tồn tại mà Ngài vẫn chịu được.

Dĩ nhiên, thể hiện dục vọng trong văn chương không phải chỉ có chuyện nam nữ. Nó còn là chuyện tiền bạc, là quyền lực, thậm chí là tôn giáo. Chính trị, ái tình, tôn giáo và tiền bạc là bốn lĩnh vực khi đề cập đến, dấn sâu vào, nhà văn không khéo rất dễ ăn đòn. Mức độ hiểm nguy của bốn khu vực trên là ngang bằng nhau và bốn trùm mafia ấy chơi với nhau thân thiết, luôn tìm cách cứu độ lẫn nhau.

Cuộc đấu tranh của nhà văn là nhằm hướng con người thoát khỏi những mê man về quyền lực chính trị, ái tình, tiền bạc và cuồng vọng hóa thánh chính mình. ở đây, nhà văn là kẻ phải một mình chống bốn trùm mafia. Có thể nói, chọn nghề văn là chắc chắn chọn sự thất bại về mình, bởi vì trong mỗi con người ai cũng phải dính dấp đến bốn phạm trù này, không sao thoát được. Vừa chấp nhận nó, vừa thoát được nó, vẫn giữ được đạo, đấy là ước mơ của người cầm bút.

Đời sống con người hết sức đa dạng. Người viết cũng thế, hết sức đa dạng. Chỉ rất ít nhà văn vượt qua được biển cả chông bút rồi cắm được ngọn cờ ghi tên mình vào một mô đất nhỏ nhoi nào đó. Đa số đến nơi thì đã kiệt sức, trên người cắm chi chít bút chì, bút bi, bút mực, bút kim, các vũ khí đủ loại sang trọng và bỉ ổi, thậm chí cả đạn. Vậy ai đến đích? Ai không đến đích?

Số đông nhà văn, có lẽ chiếm đến 99,99% người viết vướng vào những hóc hiểm của đường đời, lúng túng trong các mê lộ của lòng người và trong các mê lộ của từ ngữ, không sao thoát ra được. Số này không biết rũ bỏ sự kiện để tìm đến bản chất. Đặc điểm nghệ thuật của những nhà văn này là sự hoa mỹ ngôn từ, sự rườm lời. Họ không bắt mạch được tính cách nhân vật và thường để cho nhân vật cư xử nói năng nhầm lẫn. Các nhân vật đó yêu đương nhăng nhít, không biết kiếm tiền và tiêu tiền sai, chẳng biết gì về chính trị và tất nhiên vô đạo. Bản thân nhà văn vấp phải chông gai trong đường đời sẽ mắc phải chông gai trong ngôn từ và làm cho độc giả cũng bị thiệt mạng nốt. Rất nhiều nhà văn tưởng như lý giải được điều gì đó nhưng thực ra lại làm rối thêm.

Dĩ nhiên, trong tác phẩm của 99,99% số nhà văn đó không phải vứt đi hết cả, lấp lánh ở đâu đó vẫn có vài hạt vàng bé nhỏ. Người đọc tinh ý biết cách thâu lượm những hạt vàng đó sẽ có được một số vàng kiến thức đáng kể, có điều như vậy sẽ phải mất công sức và thì giờ. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khi ngẫm nghĩ về sự đời đã nói về điều này rất gan ruột:

Không có gì hiểm bằng đường đời
Nếu không biết cắt bỏ thì toàn là chông gai cả


Chữ cắt bỏ này trong nghề văn Măcxim Gorki gọi là vặt lông gà tức là biết cách rũ sạch các sự kiện không bản chất, rũ sạch các hư từ, hình dung từ, phiếm từ... Trong đời sống, ta có thể coi nó là việc cắt bỏ những ràng buộc của thể chế xã hội tiến tới tự do cá nhân tuyệt đối, giấu mình vào thế giới nội tâm chính mình.

Khi giấu mình vào thế giới nội tâm chính mình, đối mặt với khoảng không tự do cá nhân tức là lúc con người đối mặt với quỷ. Viết đến đây, tôi nhớ đến chuyện kể về hai người phụ nữ. Một bà hỏi: Bạn thân mến, nếu chết bạn sẽ chọn thiên đường hay địa ngục?. Bà kia trả lời: Kể ra thiên đường thì khí hậu tốt thật, nhưng ở địa ngục thì nhiều chuyện vui hơn. Giai thoại này chứa ẩn một nụ cười triết học. Những nhà văn cao thủ mà tôi cho là chiếm tỷ lệ 0,009% số người cầm bút đã thể hiện tài tình đời sống tự do cá nhân của mình và nhân vật. Đọc họ rờn rợn, ghê ghê là phải. Nhưng thích. Hơn nữa thỉnh thoảng lại được cười tủm. Loại văn chương này ngày xưa gọi là văn trung hữu quỷ. Tú Xương thuộc loại này. Thậm chí cả Nguyễn Khuyến nữa. Khi Nguyễn Khuyến trách Tú Xương:

Rằng hay thì thật là hay
Đem Trời đối chó lão này không ưa


thì thật ra cũng là chuyện chó chê mèo lắm lông. Khi rơi vào hoàn cảnh hỏng thi như Tú Xương thì Nguyễn Khuyến cũng phải viết như thế chứ còn biết viết thế nào.

0,009% số nhà văn hiếm hoi trên chắc chắn từng trải, tốt bụng, uyên thâm. Ở họ ranh giới tốt xấu có khi nhòe vì họ chỉ quen làm điều tốt chứ có làm điều xấu bao giờ đâu mà biết điều xấu xa là gì. Song, những nhà văn này bao giờ cũng bị búa rìu dư luận phang vào không thương tiếc. Lỗi duy nhất của họ là họ quá thật với mình và với bạn đọc. Đây là thứ văn chương nổi loạn. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã suy nghĩ về điều này rất gan ruột: Không gì nguy bằng lòng người. Nếu không biết giữ gìn mà buông phóng ra thì hóa thành quỷ quái cả.

Trong lời sấm ấy của Trạng Trình chứa ẩn chân lý sau đây: đấy là tính mức độ, tính hữu hạn của thiên tài.

Đến đây, chúng ta sẽ gặp khái niệm hài hòa của mỹ học hay tình trạng mà ta vẫn quen gọi là đắc đạo. Số nhà văn đắc đạo chiến tỷ lệ ít đến kinh người, nó chỉ chiếm 0,001% số người cầm bút mà thôi. Họ là những thiên tài và bao giờ họ cũng lấy điều chí thiện làm tiêu chuẩn tuyệt đối. Việt Nam may mắn đã có Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, còn sau Nguyễn Du thì hình như chưa thấy ai cả.

Có thể có người sẽ phản đối tôi về việc chia tỷ lệ ba loại văn chương kia. ở đây tùy quan niệm về người cầm bút. Cách chia tỷ lệ của tôi là từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, từ Tư Mã Thiên trở xuống chứ không phải là từ dưới lên trên theo danh bạ lý lịch ở văn phòng Hội Nhà văn Việt Nam.

Tóm lại, dù ở loại văn chương nào, cũng phải lấy chữ tâm, lấy điều chí thiện làm gốc. Cảnh tỉnh, đe nẹt người viết là cảnh tỉnh, đe nẹt loại nhà văn chiếm số đông kia. Đối với 0,001% nhà văn đắc đạo, cảnh tỉnh đe nẹt họ là thừa.

Đến đây bật ra câu hỏi: ai sẽ là người có quyền cảnh tỉnh đe nẹt văn chương? Chẳng ai hết cả, đấy là bốn trùm mafia tồn tại hết mọi thời: chính trị, ái tình, tiền bạc và tôn giáo. Bốn thế lực này giăng bẫy khắp nơi, hành hạ con người. Văn chương giúp cho con người nhận thức về mình, nhận chân sự hiểm nguy trong đường đời. Cuộc chiến tranh nhận thức diễn ra liên tục, khi quyết liệt, khi hoà hoãn và thường người cầm cờ ở mọi thời bao giờ cũng là một gã nhà văn bất hạnh được thời thế và lịch sử chọn lựa.

Gã đang đi trên đường kia, bút và giấy trong túi, tiền bạc không, chẳng có bổng lộc gì, trái tim tan nát...

Hà Nội tháng 4/1990
N.H.T.
(TCSH46/04-1991)
 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.