Nhà văn Trần Thùy Mai vừa ra mắt bộ tiểu thuyết lịch sử “Từ Dụ thái hậu” sau một thời gian dài im tiếng. Điều thú vị, cuốn sách đề cập đến lịch sử nhưng được tác giả viết bằng văn phong thuần Việt, với ngôn ngữ nhuần nhị để thu hút độc giả trẻ.
Nhà văn Trần Thùy Mai tặng chữ ký cho độc giả
“Chạm ngõ” làng tiểu thuyết
Với những truyện ngắn đã đi vào tác phẩm điện ảnh như “Thương nhớ Hoàng Lan”, “Trăng nơi đáy giếng”… Trần Thùy Mai đã tạo cho mình một giọng văn riêng, rất Huế. Giọng văn ấy vừa như lời thì thầm, vừa như có một ma lực dễ bám vào tâm trí người đọc.
Viết văn khi mới 22 tuổi, đến nay đã gần 40 năm cầm bút, nhưng chưa khi nào, Trần Thùy Mai coi văn chương là một cuộc chơi. Với chị, văn chương là một công việc nghiêm túc, vất vả thậm chí cực nhọc nhưng không mệt mỏi, vì đó là niềm yêu thích. Văn chương đã cho chị được là chính mình, được có thêm nhiều bạn, nhất là những người bạn gái. Họ đến và kể cho chị nghe những tâm tình.
Với bộ tiểu thuyết đầu tay “Từ Dụ thái hậu” vừa ra mắt cũng vậy. Nhà văn Trần Thùy Mai đã viết cật lực trong 2 năm trời.
Câu chuyện của tác phẩm trải dài trong 30 năm, qua 3 đời vua: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Từ lúc cô thiếu nữ 13 tuổi Phạm Thị Hằng theo cha từ vùng đất phương Nam trù phú về kinh đô, chịu bao thăng trầm dâu bể rồi trở thành người đứng đầu hậu cung nhà Nguyễn. Cô tiểu thư họ Phạm thông minh, nhân hậu đã chứng kiến rất nhiều phận trong cung cấm, những bi kịch cung đình. Những mưu mô thủ đoạn tàn độc đầy rẫy ở hậu cung đôi lúc làm khuynh đảo cả triều chính, gây ra những cái chết tức tưởi, những án oan dậy trời tiếng nhơ khó rửa, đến mức hậu thế phải tốn nhiều bút mực tranh luận.
Theo nhà văn, có 3 nguyên liệu chính để chị viết cuốn tiểu thuyết này là tư liệu lịch sử, truyện dã sử và trí tưởng tượng. Chị cũng bày tỏ sự khó khăn trong việc tìm tư liệu lịch sử: “Chính sử của mình về những nhân vật hậu cung thường ngắn gọn và ít tư liệu. Vì thế, việc tiếp cận lịch sử bị hạn chế. Nhưng nó cũng là thuận lợi cho tôi, vì mình có nhiều khoảng trống để tưởng tượng”.
Nhà sử học Lê Văn Lan đánh giá, bộ tiểu thuyết có rất nhiều điều thú vị tràn ngập hơn 900 trang sách, 69 chương. “Ở tác phẩm này có sự thực, có khách quan lịch sử đích thực. Nhưng ở đây cũng có quan niệm, tài năng, bút pháp của người viết tiểu thuyết lịch sử. Đọc tác phẩm của Trần Thùy Mai, chúng ta vỡ ra được nhiều điều của lịch sử thông qua những quan niệm chủ quan của nhà văn”, ông Lê Văn Lan nhận xét.
Để giới trẻ hứng thú với lịch sử
Vì sao đang viết truyện ngắn Trần Thùy Mai lại chuyển qua thử sức với tiểu thuyết lịch sử? Đem thắc mắc ấy hỏi nhà văn, chị bảo có nhiều lý do thôi thúc viết bộ tiểu thuyết “Từ Dụ thái hậu” này. Trong đó, có lý do con gái chị dạy học về kể, cả lớp 35 sinh viên nhưng hỏi chim Lạc (loài chim thủy tổ của người Việt) là gì thì không ai biết.
“Cho nên tôi muốn viết tiểu thuyết lịch sử để góp một tay làm cho môn Sử trở nên hứng thú hơn, nhất là với độc giả trẻ” - nhà văn Trần Thùy Mai chia sẻ.
Để xảy ra tình trạng người Việt ít hiểu về lịch sử dân tộc, đặc biệt nhiều học sinh ngại sử, có trách nhiệm của các nhà văn hóa.
“Các nhà văn, nhà làm phim cần phải góp tay vào việc đó, nếu không thì khó mà trách tại sao nhiều thanh thiếu niên của mình thuộc làu làu những chuyện về Đường Cao Tổ, Võ Tắc Thiên, mà biết rất lờ mờ về Hai Bà Trưng hay Quang Trung - Nguyễn Huệ” - nhà văn Trần Thùy Mai trăn trở bày tỏ.
Trái lại trong tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết lịch sử, cái gì mình không biết thì phải tìm hiểu cho đến khi biết thật tường tận. Ví dụ những giai thoại về bà Hồ Thị Hoa (Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu, mẹ vua Thiệu Trị) thường được người dân quanh vùng mộ táng của bà truyền tụng (lăng Hiếu Đông, Huế).
Tương tự, những chuyện về Phạm Đăng Hưng (Thân phụ của Từ Dụ thái hậu) thường được nghe kể quanh vùng lăng Hoàng Gia (Gò Công)”.
Dưới góc độ độc giả, nhà văn Trang Hạ nhận xét: “Tôi vô cùng thích thứ tiếng Việt thuần Việt mà chị Mai dùng trong bộ sách này. Ngày nay, các bạn trẻ có xu hướng Hán hóa trong sử dụng tiếng Việt hiện đại, điều đó khiến những người theo đuổi thứ tiếng Việt thuần Việt như tôi “không chịu nổi”. Nhưng trong cuốn này, tôi tìm thấy rất nhiều bài học tiếng Việt được xử lý vô cùng tinh tế”.
Chia sẻ về nhận xét này, nhà văn Trần Thùy Mai thừa nhận, chị rất muốn hướng tác phẩm của mình đến các bạn đọc trẻ. “Khi viết, tôi đã cố tránh những từ ngữ cổ, những từ Hán Việt (tất nhiên có cân nhắc giữ lại một số từ cần thiết, để phù hợp với cung cách ăn nói của người xưa).
Tôi muốn đây là một câu chuyện xưa nhưng viết cho người đọc đời nay, bằng ngôn ngữ mà bạn đọc trẻ có thể hiểu và cảm nhận được một cách dễ dàng”, nhà văn chia sẻ.
Theo Quỳnh Chi - GD&TĐ
. Hai năm sau kể từ khi Julia Kristeva đưa ra khái niệm liên văn bản (intertextuality), Roland Barthes đã đi xa hơn nhiều qua một tuyên bố gây sốc: Cái chết của tác giả (The Death of the Author, 1968). Những quan niệm mới mẻ của các nhà khoa học một thời từng là trụ cột của chủ nghĩa cấu trúc đã chính thức khép lại vai trò của isme này và mở ra giai đoạn hậu cấu trúc. Trong quan niệm mang tính gây hấn của họ, người đọc, từ chỗ là kẻ bên lề, đã chính thức bước vào vị thế trung tâm với tư cách là kẻ có quyền năng tối thượng trong việc thiết lập mối quan hệ và ý nghĩa giữa văn bản và liên văn bản, giữa văn bản và các thiết chế văn hóa đã tạo ra nó(1).
Tiểu thuyết về giải phóng miền Nam Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.1975 của nhà báo kỳ cựu Trần Mai Hạnh đã vượt qua tiểu thuyết về chiến tranh biên giới phía Bắc Mình và họ của Nguyễn Bình Phương, tác giả xuất sắc của văn học đương đại.
“Tay chơi” Nguyễn Quang Sáng rời xa cõi tạm, “trưởng lão” Tô Hoài về với “Cát bụi chân ai,” nhà văn của đất và người phương Nam - Anh Đức về với đất Mẹ, tác giả của “Biển và chim bói cá” - nhà văn Bùi Ngọc Tấn kết thúc hành trình sống và viết…
"Những đỉnh núi du ca" là công trình nghiên cứu mới nhất về tộc người H'mông của nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Mạnh Tiến (ảnh bên), người đã cố công lang thang suốt ba năm trên khắp miền núi phía Bắc mà trọng tâm là cao nguyên đá Đồng Văn để tìm kiếm cho mình một lối tiếp cận khả dĩ nhất để giải mã những phản ứng phức tạp của tộc người vừa đặc biệt, vừa hấp dẫn nhưng cũng không ít bí ẩn.
"Có một phố vừa đi qua phố" - tập di cảo của cố tác giả Đinh Vũ Hoàng Nguyên - là một trong bốn tác phẩm văn học đoạt giải "Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2014".
Nhà văn quân đội có tiếng Đình Kính (Hải Phòng) viết ở nhiều lĩnh vực: Tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, kịch bản phim. Mảng chủ đề lớn mà ông đeo đuổi là biển và những người lính biển, với các tác phẩm “Sóng cửa sông” (1976), “Đảo mùa gió” (1978), “Lính thủy” (1978), “Người của biển” (1985) - Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng, “Sóng chìm” (2002), “Huyền thoại tàu không số” (2012) - 2 tác phẩm này đều đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn VN. Phóng viên Báo Lao Động đã phỏng vấn ông…
Trong tiểu thuyết Xác phàm, nhà văn Nguyễn Đình Tú dùng hình ảnh “mùi buồn” để gợi lại ẩn ức về một cuộc chiến tranh.
Bất kỳ người cầm bút nào cũng đều mơ ước rằng tác phẩm của mình sẽ trở thành sách gối đầu giường của hàng triệu người. Sao chúng tôi - những nhà văn, nhà thơ Việt Nam lại không mong muốn một ngày tác phẩm của mình hiện diện trên các ngôn ngữ của dân tộc khác chứ?
NGUYỄN NHẬT ÁNH
Tạp văn
Nhà văn Tô Hoài - tác giả của cuốn sách "Dế mèn phiêu lưu ký" khiến bao thế hệ bạn đọc Việt Nam say mê - đã từ trần vào trưa 6.7.2014 tại nhà riêng ở Hà Nội, hưởng thọ 95 tuổi.
Nobel Văn học là đỉnh cao nhưng không phải đỉnh cao nào cũng làm hoan hỉ tất cả mọi người. Việc lựa chọn của viện Hàn lâm Thuỵ Điển những năm gần đây chắc chắn sẽ làm chạnh lòng những ai đã trót yêu thích thế giới văn chương của Kafka, Jorge Louis Borges, Umberto Eco, Robbe – Grillet, Italo Calvino…
Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lần nào ra Hà Nội, dù dài ngày hay chỉ là thoáng chốc, nhà văn Trần Thùy Mai cũng tới ngồi uống cà phê ở nhà hàng Thủy Tạ nhìn ngắm hồ Gươm và hẹn bạn bè tới gặp gỡ chuyện trò. Hỏi vì sao chị chỉ chọn mỗi chỗ này, Trần Thùy Mai bảo: “Là vì ở đây là “Hà Nội nhất”, lại có thiên nhiên bao quanh, giống như bờ sông Hương ở Huế vậy…”.