Nhà văn Hoài Thanh: Biểu tượng phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX

09:28 16/07/2019

Ở giai đoạn nào Hoài Thanh cũng có đóng góp quan trọng cho sự nghiệp văn học của đất nước. Mỗi bài viết của ông đều ghi nhận tài năng phê bình kiệt xuất, tấm gương sống trung thực và lao động bền bỉ.

Nhắc đến Hoài Thanh là nhắc đến một nhà văn hóa, nhà phê bình văn học Việt Nam lớn nhất, tài hoa nhất thế kỷ XX.

Ở giai đoạn nào ông cũng có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp văn học của đất nước. Mỗi bài viết của ông đều ghi nhận tài năng phê bình kiệt xuất, tấm gương sống trung thực và lao động nghệ thuật bền bỉ.

Hoài Thanh tên thật là Nguyễn Đức Nguyên, sinh ngày 15/7/1909 trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống cách mạng ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

Hoài Thanh tham gia phong trào yêu nước từ rất sớm, ông từng 2 lần bị bắt giam, rồi bị đuổi học vì các hành vi chống đối chính quyền thực dân Pháp.

Đầu năm 1931, ông vào Huế làm công cho một nhà in, đi dạy học, rồi viết báo, viết văn.

Hoài Thanh khai sinh văn nghiệp của mình từ năm 1936 với hàng loạt các bài viết đăng trên các báo Phổ thông, Dân chúng, Gazettede Huế, Tràng An...

Sau đó bằng nhiều bài nghiên cứu, phê bình, tiểu luận có giá trị, ông đã trở thành một cây bút lý luận phê bình sắc sảo, có nhiều đóng góp cho hoạt động nghiên cứu văn học thời bấy giờ cùng những ảnh hưởng không nhỏ về sau này.

Nhà thơ trong phê bình thơ

"Thơ mới” (đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy ngày 29/12/1934) là bước khởi đầu cho sự nghiệp phê bình của Hoài Thanh.

Ở bài viết đầu tay, Hoài Thanh đã nói đến những khởi động quan trọng rồi sẽ phát triển thành một phong trào thơ, một cuộc cách mạng trong thơ, một thời đại của thi ca.

Ông đã đứng trên lập trường ủng hộ nó, khẳng định nó và ca ngợi nó, dẫu Thơ mới lúc đó còn đang trên đường hình thành giữa một biển thơ cũ, số người phản đối nó vẫn đang còn là lực lượng áp đảo.

Trong buổi giao thời, giao tranh cũ mới, khi cái mới còn rất mong manh và lẻ loi, Hoài Thanh đã làm được việc tiên đoán đầy tài năng và dũng cảm.

Sau “Thơ mới” là bài “Tìm cái đẹp trong tự nhiên là nghệ thuật; Tìm cái đẹp trong nghệ thuật là phê bình” (đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy ngày 26/1/1935).

Đây là một tuyên ngôn không chỉ phù hợp với sự nghiệp viết của ông trước năm 1945 mà cũng có sức chi phối rất cơ bản sự nghiệp viết của ông sau đó.

Đó là, trong phê bình, gồm phê và bình, ông chỉ bình chứ không phê: “Bình thì còn được. Nhưng phê? Sao lại phê?” Bình có nghĩa là khen. Và khen tức là sự đi tìm và xác định cái hay trong văn chương. Bởi nói như ông, với văn chương, để được gọi là văn chương, cái hay mới là cái đáng giá, còn cái dở, cái nhảm thì “không tiêu biểu gì hết.”

Ở bài tiểu luận có ý nghĩa tuyên ngôn này Hoài Thanh đã nói điều ông sẽ thực hiện và trung thành với nó trong suốt đời viết của mình.

Năm 1942, Hoài Thanh và Hoài Chân viết “Thi nhân Việt Nam” - tác phẩm bất hủ đã đưa tác giả lên vị trí cao, xứng tầm một nhà nghiên cứu và phê bình lớn của nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Hoài Thanh được đánh giá là người đã trao chiếc áo hoàng bào trong lễ đăng quang của Thơ mới. Chính ông đã góp phần làm rõ diện mạo của “Một thời đại trong thi ca” mà sau này, những nhận xét của ông vẫn còn là mẫu mực của phê bình văn chương hiện đại.

“Thi nhân Việt Nam” được đánh giá là một thiên chính luận, một công trình tổng kết một cách sâu sắc, chuẩn mực về phong trào Thơ mới (1932-1945).

Trong hàng trăm nhà thơ, hàng vạn bài thơ, nhà phê bình đã chọn ra 46 nhà thơ, 169 bài thơ tiêu biểu cho phong trào Thơ mới.

Trong đó Hoài Thanh đã vẽ nên chân dung thơ của các nhà thơ bằng một lối phê bình độc đáo. Ông ghi lại các ấn tượng, các cảm xúc, các hình sắc… mà thơ của từng nhà thơ đã hiện lên trong tâm hồn ông.

Sau tất cả các thi sỹ, ông cũng là một nhà thơ với tất cả các phẩm chất của thơ qua lời văn xuôi nghệ thuật quyến rũ, đưa người đọc vào một thế giới riêng do ông tạo ra.

Chưa bao giờ trong nền văn học Việt Nam có một cuộc hẹn hò kỳ diệu như vậy, giữa tâm hồn một người “bình thơ” và tâm hồn những “thi nhân,” “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”...

Tấm gương lao động nghệ thuật bền bỉ

Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hoài Thanh tích cực tham gia kháng chiến và nỗ lực trau dồi quan điểm văn nghệ cách mạng.

Ông như được tiếp thêm nguồn năng lượng mới, giúp sáng tạo thêm nhiều tác phẩm phê bình văn học - chủ yếu vẫn là những tác phẩm phê bình thơ, có giá trị tỏa sáng trong nền văn học cách mạng, kháng chiến và xây dựng xã hội mới.

“Có một nền văn hóa Việt Nam” viết năm 1946 là tác phẩm đầu tiên ông viết sau Cách mạng Tháng Tám.

Đây là tác phẩm giàu tính chiến đấu và có sức thuyết phục cao bởi lý lẽ sắc bén và tình cảm chân thành của tác giả đối với văn hóa dân tộc.

Tác phẩm tiếp theo “Nói chuyện thơ kháng chiến” (1951) tập hợp những bài nói chuyện về thơ của Hoài Thanh trước đông đảo công chúng trên những nẻo đường đầy gian lao mà anh dũng của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Với sự đồng cảm sâu xa, Hoài Thanh luôn khẳng định “nội dung của thơ ca kháng chiến là tình yêu nước, và không có gì ngoài tình yêu nước, không có gì ngoài những phương diện của tình yêu nước.”

Tiếp tục duy trì những thao tác đã dùng khi viết Một thời đại trong thi ca, nhà phê bình đã quan sát thơ kháng chiến từ nhiều bình diện: cơ sở xã hội, đội ngũ sáng tác, nội dung trữ tình, thể thơ...

Hoài Thanh đã phác họa chân dung những con người mới của một thời đại mới, nhân vật công nông binh, đồng thời chọn lọc và giới thiệu những bài thơ kháng chiến tiêu biểu như "Viếng bạn" (Hoàng Lộc), "Nhớ" (Hồng Nguyên), "Bài ca vỡ đất" (Hoàng Trung Thông), "Người dân quân xã" (Vĩnh Mai), "Lượm", "Lên Tây Bắc" (Tố Hữu)...

“Phê bình và tiểu luận” tập 1 (1960), tập 2 (1965), tập 3 (1971), là bộ sách tập hợp những bài nói, bài viết, bài giảng của ông về văn học nghệ thuật của ông từ sau cách mạng.

Trong đó đáng chú ý là những bài giảng của ông về văn học cổ điển Việt Nam, như "Hoa tiên," "Chinh phụ ngâm," "Truyện Kiều" đã đạt tới sự phân tích sâu sắc với những khám phá mới mẻ.

Những bài viết của ông về thơ Chủ tịch Hồ Chí Minh, thơ Tố Hữu cũng được nhiều người chú ý.

Ông còn đi bình thơ, nói chuyện thơ tới hàng nghìn buổi từ miền cực Bắc của Tổ quốc đến tận mũi Cà Mau.

Theo sóng Đài tiếng nói Việt Nam, các câu chuyện thơ của ông đã lan tỏa khắp mọi miền đất nước, góp phần truyền tải đến công chúng những giá trị cao đẹp của thơ ca dân tộc, thơ cách mạng và kháng chiến.

Ngày 14/3/1982, Hoài Thanh đã từ giã cõi đời, thọ 73 tuổi. Cuộc đời ông từ thuở thiếu thời cho đến lúc trái tim ngừng đập là một chuỗi dài những cuộc tìm kiếm đầy thích thú mê say cái hay và vẻ đẹp văn chương.

Như một nhà địa chất cần mẫn, yêu nghề, Hoài Thanh đã phát hiện được không ít vàng ngọc của thơ ẩn trong lớp bụi thời gian hoặc trong các mạch chìm nổi của cuộc đời.

Nghĩ về sự đóng góp của mình cho cuộc đời, Hoài Thanh từng nói: “Dẫu chưa đóng góp được gì nhiều thì cuộc đời mỗi chúng ta cũng là một giọt nước trong biển cả mênh mông và giọt nước không phải chỉ có chua với chát mà cũng có nhiều phần ngọt, phần trong. Và đến ngày nào đó chúng mình ra đi thì chúng mình cũng có thể nhẹ nhàng ra đi với ý nghĩa ấy…”

Đánh giá cao những đóng góp xuất sắc của ông cho sự nghiệp văn học nước nhà, năm 2000, Nhà nước đã truy tặng ông Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật.

Còn thế hệ sau thì luôn nhớ tới ông như một biểu tượng phê bình văn học của văn đàn Việt Nam thế kỷ XX./.

Theo Diệp Ninh (TTXVN/Vietnam+)
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Ngày 26-12, chương trình giới thiệu các ấn phẩm đạt Giải thưởng Văn học Nghệ thuật (VHNT) TPHCM 5 năm lần II (2012 - 2017) đã diễn ra tại TPHCM, nhiều tác phẩm có giá trị đã được xướng tên, có điều, với việc được dán nhãn “sách không bán”, chưa biết tác phẩm sẽ đến với độc giả như thế nào?

  • Nhà xuất bản Văn học và bạn bè, người thân, những người yêu mến tác giả Nguyễn Trọng Tạo - người nghệ sĩ tài hoa này vừa hoàn thành và ra mắt Nguyễn Trọng Tạo - tuyển tập. Bộ sách được giới thiệu tới công chúng trước ngày giỗ đầu của ông được xem như một ném tâm hương thành kính dành để tri ân tới người nghệ sĩ tác giả “Khúc hát sông quê”.

  • Mới đây, Ban chấp hành Hội Nhà văn TPHCM vừa công bố Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM năm 2019. Theo đó, có 4 tác phẩm được nhận giải thưởng và tặng thưởng trong năm nay.

  • Chiều ngày 17/12, tọa đàm ra mắt tiểu thuyết Cô độc của nhà văn Uông Triều diễn ra tại tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 4 Lý Nam Đế - Hoàn Kiếm, Hà Nội. Tọa đàm với chủ đề Cuộc hành hương của chữ, đã thu hút đông đảo các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, phê bình văn học đến dự và phát biểu ý kiến.

  • Tập thơ “Phút rành rang sống chậm” (NXB Hội Nhà văn, 2019) của nhà thơ, TS Nguyễn Trọng Hoàn (Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học, Bộ Giáo dục và Đào đạo) có 184 bài thì hai phần ba số ấy nói đến hành vi đi và hình ảnh con đường. Ngay tại lời đề từ và bài Đề dẫn đặt đầu sách, tác giả đã viết: Ý nghĩ ăn phải bùa thiên di/ Anh đi mãi đến giờ không kịp nghĩ.

  • Sáng 12/12/2019, tại 58 Quán Sứ, Hà Nội, Ban Văn hoc - Nghệ thuật (V0V6) Đài Tiếng nói Việt Nam đã tổ chức buổi toạ đàm giới thiệu tiểu thuyết lịch sửĐường về Thăng Long của nhà văn Nguyễn Thế Quang.

  • Hãy cùng trở lại quá khứ, nghe câu chuyện có thật mà như cổ tích, để cảm nhận về một tình bạn đầy xúc động. Tình bạn giữa đôi voi Xung và Cung. Tình bạn giữa hai dân tộc Việt Nam - Liên Xô ngày ấy, Việt Nam - Liên bang Nga bây giờ.

  • Trong hội thảo do Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức, kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Bùi Hiển, cùng với những đánh giá và đề xuất nhận định thêm, rõ hơn về người cầm bút cần mẫn, bám sát đời sống người dân lao động, còn có những chia sẻ thân thiết về một bạn văn đáng kính của nhiều nhà văn.

  • Khoa Viết văn - Báo chí (tiền thân là Trường Viết văn Nguyễn Du) Trường Đại học Văn hóa Hà Nội vừa tổ chức kỷ niệm 40 năm thành lập. 

  • Nhằm đúng ngày sinh nhật của nhà thơ Thanh Tùng, đông đảo văn nghệ sĩ đã tề tựu tại Hội Nhà văn Việt Nam để cùng trò chuyện về tài thơ cũng như cuộc đời ông, trong khuôn khổ hội thảo “Thanh Tùng – còn đây một thời hoa đỏ”. 

  • Sáng 13-11, Hội nghị viết văn trẻ Hà Nội lần thứ III được tổ chức tại Ninh Bình. Nhiều nỗi trăn trở của người viết trẻ được nêu ra, song vẫn thiếu những giải pháp thiết thực được kiến nghị, đưa ra bàn thảo. Hơn lúc nào hết, người viết trẻ rất cần sự chung tay để phát triển tài năng, sáng tạo, vì sự phát triển văn hóa Thủ đô.

  • Kỉ niệm 84 năm ngày sinh nhà thơ Thanh Tùng (7/11/1935 - 12/9/2017), sáng ngày 7/11/2019, tại 9 Nguyễn Đình Chiểu, Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp với Hội Liên hiệp VHNT Hải Phòng tổ chức Hội thảo “Thơ Thanh Tùng - còn đây một thời hoa đỏ”.

     

  • Nhìn lại gần 100 năm qua, kể từ khi Thơ mới có những manh nha trên báo chí đến thời điểm hiện tại, có thể liệt hàng nghìn bài viết, công trình tập trung vào mọi khía cạnh của Thơ mới.

  • Tôi đọc nhiều bài thơ trong tập thơ “Biên bản thặng dư” (NXB Hội Nhà Văn 9/2019) đầy ấn tượng của nhà thơ Phùng Hiệu. Chủ lưu trong mạch trữ tình của anh là ánh nhìn tinh khôi về tình yêu, tình đời.

  • Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CH Pháp tại Việt Nam Nicolas Warnery, vừa trao tặng Huân chương Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật cho nhà văn Ngô Tự Lập. Sự kiện nằm trong khuôn khổ Diễn đàn quốc tế “ Franconomics” được tổ chức tại L’Espace.

  • Ba mươi năm làm vợ làm mẹ, ba mươi năm làm báo viết văn đã đem lại cho nhà văn Y Ban nhiều trải nghiệm.

  • “Văn Nguyễn Minh Châu cho thấy nhiều hành trình, nhưng hành trình khiến tôi nhớ nhất là từ “Dấu chân người lính” (1972) đến “Lửa từ những ngôi nhà” (1977), vắt ngang thời điểm 1975, từ chiến tranh về hòa bình, từ chiến trường về hậu phương, nhưng là một hậu phương vẫn tiếp tục là chiến trường trong đời thường không khói súng. Có thể nói chất đời tràn trề, thấm đẫm trong văn Nguyễn Minh Châu” - GS. Phong Lê chia sẻ tại hội thảo “Nguyễn Minh Châu và tiến trình đổi mới văn học” nhân kỷ niệm 30 năm ngày mất của nhà văn.

  • “Châu - Chút tạ tình tri âm” của tác giả Thanh Thủy là cuốn bút ký viết về cuộc đời và sự nghiệp của người nghệ sĩ tài danh - NSƯT Mỹ Châu.

  • Bước ra từ chiến trường với 10 năm làm lính đặc công đã góp phần tạo nên tên tuổi của nhà văn viết về chiến tranh Việt Nam - Chu Lai. Hàng chục tác phẩm ra đời đã được đông đảo độc giả đón nhận nhưng chưa khi nào ông ngừng suy ngẫm và trăn trở. “Khi nào tôi còn neo vào hơi thở cần lao, còn hết lòng yêu thương con người, tôi còn tạo cho nhịp điệu trái tim mình”.

  • Không hoa lệ như trong những dòng văn của Thạch Lam, cũng không lãng mạn tình tứ như câu hát “sương giăng Hồ Tây trắng”... Hà Nội nói riêng và miền Bắc nói chung vào thập kỷ 70 của thế kỷ trước, hiện ra trong ký ức của tác giả Trung Sỹ rất khác.