Nhà văn Bùi Anh Tấn: Lịch sử như một mỏ vàng khổng lồ cho văn chương

09:38 09/10/2018

Sau các tác phẩm Nguyễn Trãi (2 tập), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Bí mật hậu cung, mới đây nhà văn Bùi Anh Tấn tiếp tục trở lại với đề tài lịch sử bằng tiểu thuyết Bảo kiếm và giai nhân, do NXB Tổng hợp TPHCM ấn hành. 

Nhà văn Bùi Anh Tấn

Văn học chưa xứng tầm với lịch sử 

PHÓNG VIÊN: Anh vừa góp thêm vào gia tài văn chương của mình bằng một cuốn tiểu thuyết đề tài lịch sử. Lý do của sự tha thiết với đề này là gì, thưa anh? 

Nhà văn BÙI ANH TẤN: Nước mình có mấy ngàn năm lịch sử với rất nhiều trang sử bi hùng, kể cả góc khuất. Tất cả những điều đó đều trở thành chất liệu tốt cho nhà văn. Từ đam mê, tôi bắt đầu nghiên cứu về lịch sử và viết. Những tiểu thuyết trước và mới đây là Bảo kiếm và giai nhân được ra đời xuất phát từ đam mê đó. 

Viết về lịch sử đòi hỏi sự lao động cao độ của nhà văn. Khi viết về lịch sử của giai đoạn nào, tôi phải am hiểu lịch sử của giai đoạn đó giống như một chuyên gia. Không chỉ am hiểu những diễn biến trước mà còn phải am hiểu cả những sự kiện ngay thời điểm đó, thậm chí là sau này, khi các hậu bối đánh giá về giai đoạn lịch sử đó. Tôi nghĩ rằng, để có được nguồn tư liệu về lịch sử, việc đầu tiên là phải đọc, xử lý một khối lượng thông tin khổng lồ. Đọc, xử lý và chắt lọc những gì cần thiết cho mình chứ không phải cái gì cũng ôm hết. Từ ba nguồn tài liệu đó, mình phải chọn lọc kỹ lưỡng, giống như cách mà bầy ong chiết lấy mật, lúc đó mới viết được.

Lịch sử Việt Nam có bề dày qua rất nhiều thăng trầm. Với một nền lịch sử như thế, theo anh, chúng ta đã có những tác phẩm văn học xứng tầm hay chưa? 

Tôi cho rằng, chưa có tác phẩm văn học xứng tầm với lịch sử. Dường như mãi đến thế kỷ 17, 18 mới có tác phẩm Nam triều diễn nghĩa gọi là tác phẩm văn học về lịch sử; còn trước đó, hầu như chưa thấy tác phẩm do tiền nhân viết. Sau này, đến thời hiện đại, các nhà văn cũng bắt tay vào viết lịch sử nhưng khách quan mà nói, vẫn chưa có những tác phẩm xứng tầm. 

Với thực tế như thế, khi anh và các tác giả sau này viết về lịch sử, là một cơ hội hay thách thức?

Cả hai. Nó vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức với người viết. Còn tác phẩm thành công đến đâu, điều đó phụ thuộc vào tài năng của nhà văn. 

Nhà văn phải có trách nhiệm với ngòi bút 

Tiểu thuyết mới nhất của anh viết về những con người, những sự kiện mang tính chính sử. Nhưng vì sao anh lại định dạng cho “đứa con” của mình là tiểu thuyết dã sử. Đây có phải là một lựa chọn an toàn?  
 
Đây vừa là lựa chọn của người viết, vừa là lựa chọn của NXB. Mặc dù dựa trên diễn tiến của lịch sử, nhưng rõ ràng có nhiều cái vẫn nằm trong ý chủ quan của người viết. Chính sử là những ghi chép lại lịch sử của các nhà sử học theo thời gian và sự kiện. Nhưng một cuốn tiểu thuyết nếu chỉ dừng lại như vậy thì đọc tiểu thuyết lịch sử làm gì! Nhà văn viết bao giờ cũng phải vận dụng sự tưởng tượng của mình, giúp câu chuyện trở nên sinh động hơn. Có như vậy mới là văn chương. 
 
Bản thân tôi là người viết khá nhiều tiểu thuyết về lịch sử, tôi cũng rất mơ hồ về câu hỏi: thế nào là tiểu thuyết chính sử, thế nào là tiểu thuyết dã sử. Nhiều người tự nhận tiểu thuyết của họ là chính sử, nhưng tôi không hiểu chính sử theo kiểu gì. Tôi cho rằng, việc định danh cho thể loại không quan trọng và nó cũng rất mơ hồ. Bởi vì khi nhà văn viết về lịch sử, tất cả đều được xử lý qua cảm quan của nhà văn đó. Nếu anh bám sát lịch sử thì bảo là chính sử, nhưng ai chắc chắn lịch sử diễn ra như vậy! 
 
Thực tế, đã có những phản ứng gay gắt khi nhà văn viết về lịch sử mà không giống “chuẩn” của người đọc. Theo anh, giữa văn chương và lịch sử cần có ranh giới như thế nào để không xảy ra bất đồng ấy? 
 
Văn chương là hư cấu, mà đã là hư cấu thì nó vốn không có giới hạn về không gian, thời gian hay ranh giới. Một tác giả đang sống ở Việt Nam hoàn toàn có thể viết về một ông vua hay lịch sử của một quốc gia nào đó. Tuy nhiên, khi viết, nhà văn phải có trách nhiệm với ngòi bút của mình. Quan trọng hơn là trách nhiệm với lịch sử bằng việc tôn trọng lịch sử, câu chuyện không có thì không nên dựng lên. Ngoài ra, là trách nhiệm với bạn đọc thông qua thông điệp mà bạn muốn gửi tới họ. 
 
Văn chương là sự hư cấu theo cảm quan của nhà văn. Tất nhiên, tôi cũng không đồng tình với một số người khi cho rằng, mình là nhà văn, mình có quyền năng thì mình nói gì cũng được. 
 
Từ kinh nghiệm cá nhân, theo anh, khi viết về lịch sử, nhà văn sẽ phải đối diện với những áp lực nào? 
 
Trước hết là thời gian đầu tư rất dài và lâu, đòi hỏi ở nhà văn sự kiên nhẫn vô cùng trong việc nghiên cứu tài liệu, thẩm thấu nó, rồi kiên nhẫn viết. Khó khăn cho người viết sử Việt Nam là sách sử, những bộ sử lớn để lại rất ít, chỉ có Đại Việt sử ký toàn thư, Nam triều diễn nghĩa, một số tác phẩm của Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên…, chúng ta không có những tác phẩm lớn như Sử ký Tư Mã Thiên, Tam quốc diễn nghĩa… như ở Trung Quốc. Tác phẩm viết về sử để lại ít là một hạn chế lớn cho nhà văn. Thành thử, khi nhà văn viết sử rất khó, đòi hỏi phải kiên nhẫn, biết chắt chiu nguồn tài liệu ít ỏi. 
 
Anh có điều gì gửi gắm tới các bạn trẻ đang lựa chọn văn chương, nhất là về đề tài lịch sử?
 
Lịch sử Việt Nam như một mỏ vàng khổng lồ mà các nhà văn khai thác chưa tới. Thành thử, bạn trẻ nào viết lịch sử, tôi rất hoan nghênh. Lời khuyên duy nhất là hãy kiên nhẫn vì thực sự đây không phải là “món ăn” dễ xơi, phải kiên nhẫn và lao động cực khổ.  
 
Trong văn học nghệ thuật nói chung hay văn chương nói riêng, mỗi nhà văn phải tự đi tìm một con đường riêng. Bởi vì văn chương phải có bản sắc riêng, không mang tính chung. Nếu anh viết cái chung, đó chỉ là sao chép vụng về. Với các nhà văn trẻ, trước hết là sự trải nghiệm cuộc đời, thứ hai là đọc thật nhiều để có kiến thức và nên tự đi tìm con đường riêng. Bạn tìm được thì bạn thành công, trở thành nhà văn nổi tiếng; không tìm được, bạn chỉ là cây bút làng nhàng, dù bạn có là hội viên hội nhà văn hay đạt những giải thưởng này nọ. 
 
Đã là tác giả của nhiều tác phẩm, chủ nhân của nhiều giải thưởng uy tín, bây giờ với anh văn chương là gì? 
 
Với một người cầm bút 30 năm, viết mòn tay rồi, mỗi khi nhận được câu hỏi viết văn vì cái gì, tôi lười trả lời những câu sáo rỗng, hoa mỹ. Tôi chỉ nghĩ đơn giản là vì yêu và thích. Mình chỉ hơn một số người là mình có khả năng bày tỏ những điều yêu, ghét, thích và không thích lên trang viết. Đó là hạnh phúc của mình, vì có những người không có khả năng nên không thể bày tỏ. Sau tất cả và sau 30 năm gắn bó, tôi thấy rằng văn chương chỉ là niềm vui, niềm đam mê giúp mình được giải tỏa căng thẳng, gửi đến bạn đọc những điều mà mình yêu, ghét. Chỉ vậy thôi!

Theo Hồ Sơn - SGGP
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.

  • Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.

  • Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.

  • Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).

  • Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.

  • Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.

  • NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.

  • “Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.

  • Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.

  • Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.

  • Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).

  • Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).

  • Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.

  • Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.

  • Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.

  • Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...

  • Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.

  • Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.