PHẠM XUÂN DŨNG
Nhà thơ Tố Hữu là người xứ Huế nhưng lại có nhiều duyên nợ với Quảng Trị, nhất là đoạn đời trai trẻ, đặc biệt là với địa danh Lao Bảo.
Nhà tù Lao Bảo (Quảng Trị). Nguồn: luhanhvietnam.com.vn
Nhưng tại sao lại là Lao Bảo mà không phải là địa danh khác gợi lên phong cảnh xinh đẹp hay trữ tình trên đất Quảng Trị?
Có lẽ trong tâm tưởng của một người yêu nước, sớm bước chân vào con đường cách mạng thì những tên gọi như Lao Bảo có một ấn tượng lớn. Không chỉ vì thời ấy, đây là một địa danh khét tiếng rừng thiêng nước độc mà còn là nơi giam giữ nhiều “quốc sự phạm” cả người Việt lẫn người Lào. Mà Tố Hữu bằng linh cảm và sự trãi nghiệm thực tế đã viết nên một khẳng định bằng thơ trong bài “Trăng trối”: “Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểu/ Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Là gươm kề tận cổ, súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi còn một nửa”. Nên vào tháng 6 năm 1938, khi mới tròn 18 tuổi, trong một chuyến đi qua Lào trên Đường 9, nhà thơ đã cảm tác mà viết nên bài thơ mang tên chính là địa danh “Lao Bảo”. Nhân đây cũng xin đính chính lại thông tin mà một số bài báo đã nêu không chính xác, rằng Tố Hữu vì đi tù ở Lao Bảo nên mới sáng tác nên bài thơ cùng tên, vì nói vậy là không đúng thực tế.
Bài thơ là sự mô tả một Đường 9, một Lao Bảo thật heo hút và dữ dội:
Đèo cao vút vươn mình trong lau xám
Đá uy nghiêm trầm mặc dưới trời tro
Gió nói gì với rừng sâu u ám
Đường sao run, tê tái cả hồn thơ!
Xe dừng lại! Tường ai xây tháp núi?
Một thành trì đổ nát những ngày xưa
Của một giống dân vùi trong máu bụi
Nay điêu tàn, khối đá đứng chơ vơ?
Có chút gì rùng rợn, hoang liêu, thậm chí kinh dị như Chế Lan Viên khi viết “Điêu tàn”. Một khung cảnh cô đơn, ai oán như muốn vây bủa con người:
Là Lao Bảo, chốn này đây, Lao Bảo
Tên đun sôi sùng sục tủy xương tàn
Là nơi đây, nấm mồ bao khối não
Là nơi đây, huyết ứ dưới lời than!
Là nơi đây, pháp trường thân chiến sĩ
Nát bầm da quằn quại là nơi đây
Roi đế quốc, báng súng trường quất xé
Thịt hy sinh của những kiếp đi đầy!
Những câu thơ xé lòng như là lời ai điếu bi hùng những con người quả cảm đã vị nghĩa vong thân, quên mình nơi ngục thất dù lúc ấy Tố Hữu chưa một ngày lâm vòng lao lý. Nhưng kết thúc bài thơ vẫn hào sảng, lạc quan như là sợi dây xuyên suốt nghiệp thơ Tố Hữu.
Cho tôi hưởng tinh thần hăng chiến đấu
Cho da tôi dày dạn với ngày mai
Cho tôi hiến đến cuối cùng suối máu
Để nhuộm hồng bao cảnh xám bi ai!
Khi dấn thân trên con đường đấu tranh cách mạng, việc chịu tù đày là điều khó tránh khỏi và Tố Hữu cũng không là ngoại lệ. Và Tố Hữu gặp lại Lao Bảo. Chỉ có điều Lao Bảo không còn hiện lên trong mắt của một người khách qua đường của hai năm trước, cho dù là nhà thơ, mà qua trải nghiệm của người tù mang tên Nguyễn Kim Thành. Lao Bảo cũng như nhiều nhà tù khét tiếng của đế quốc, đều là địa ngục trần gian. Sau này chính Tố Hữu đã nhận xét về chế độ nhà tù: “Cùng với Sơn La, Buôn Mê Thuật, Côn Đảo, nhà đày Lao Bảo là một nhà tù nổi tiếng ác độc, được xây dựng ở vùng rừng núi heo hút, đầy muỗi sốt rét ác tính, ở miền Tây Quảng Trị, thực tế đã là mồ chôn hàng nghìn người cách mạng bất khuất. Song với tinh thần “biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng” nhà tù Lao Bảo đã trở thành nơi nung nấu lòng yêu nước thiết tha, rèn luyện ý chí kiên cường của các chiến sĩ cộng sản”.
Chính vì vậy mà Tố Hữu cùng các đồng chí của mình phải đấu tranh bằng cách tuyệt thực để phản đối chế độ tù đày hà khắc, man rợ. Bọn chúa ngục bày trò nấu cơm nóng với thức ăn bình dân nhưng rất ngon với những người tù để dụ dỗ họ ăn mà bỏ quên tranh đấu. Cũng là một thử thách không dễ vượt qua giữa thời tiết lạnh lẽo đối với những người tù đã nhịn đói dài ngày. Bài thơ “Con cá và chột nưa” ra đời trong hoàn cảnh đó, cuối bài thơ tác giả ghi rõ: “Lao Bảo - trong những ngày tuyệt thực tháng 11/1940”.
Năm sáu ngày mệt xỉu
Thuốc làm khuây mấy điếu
Vài ba hớp nước trong
Suy nghĩ chuyện bao đồng
Vẫn không ngoài chuyện đói.
Đang lúc như vậy mà cảnh tượng hấp dẫn lại bày ngay trước mắt:
Đầu sân, canh bốc khói
Chén cá nức mùi thơm
Lên họa với mùi cơm
Sao mà như cám dỗ!
Muốn ngủ mà không ngủ
Cái bụng cứ nằn nì:
“Ăn đi thôi, ăn đi”
Chết làm chi cho khổ!”
Tôi và “Cái bụng” đối đáp nhau chính là cuộc đấu tranh nội tâm trước cám dỗ của một bữa ăn, cũng là mồi nhử của kẻ thù. Nếu cầm lòng không đậu, chỉ một cái tặc lưỡi là xong, cuộc đấu tranh không thể nào thắng lợi và mọi chuyện của chế độ nhà tù vẫn như cũ. Phải kiên quyết vượt qua cám dỗ. Nhưng để theo đuổi chuyện này phải đâu đơn giản...
Nghe hắn thầm quyến rũ
Tôi đỏ mặt bừng tai:
“Im đi cái giọng mày
Tao thà cam chịu chết!”
Hắn nằm im đỡ mệt
Rồi tha thiết van lơn:
“Đời mới hai mươi xuân
Chết làm chi cho khổ!”
Hắn nói to nói nhỏ
Kể lể chuyện đê hèn
Tôi vẫn cứ nằm yên
Cuộc chiến nội tâm âm thầm nhưng khốc liệt, vì đó là cuộc chiến tự vượt lên chính mình. Mà người xưa chẳng đã đúc kết: “Tự tri giả anh, tự thắng giả hùng”, nghĩa là: tự biết mình là thông minh, tự thắng được mình là anh hùng. Một định nghĩa anh hùng độc đáo.
Cuộc chiến tiếp tục với những ve vãn bất ngờ, hay chính là nội tâm người tù vào những phút giây dao động.
Hắn liền thay chiến thuật:
“Thôi thì thôi: cứ vật
Nhưng phải ráng cầm hơi
Theo với bạn với đời
Cho đến ngày kết quả.
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết ai ngờ?
Thế vẫn tròn danh dự
Không can chi mà sợ
Có hôi miệng hôi mồm
Còn có nước khi hôm
Uống vô là sạch hết!”
Lần này tôi thú thiệt:
Lời hắn cũng hay hay
Lý sự cũng đủ đầy
Nghe ra chừng phải quá!
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết, ai ngờ
Thế vẫn tròn danh dự
Vào giờ phút gay cấn nhất, chỉ sơ ý, mềm lòng là tuột dốc. Nhưng không...
Nhưng mà tôi lưỡng lự
Suy nghĩ rồi lắc đầu
Đành không ai biết đâu
Vẫn không làm thế được!
Từ khi chân dấn bước
Trên con đường đấu tranh
Tôi sẵn có trong mình
Đôi mắt thần: chủ nghĩa.
Đã đứng trong đoàn thể
Bênh vực lợi quyền chung
Sống chết có nhau cùng
Không được xa hàng ngũ
Không thể gì quyến rũ
Mua bán được lương tâm
Danh dự của riêng thân
Là của chung đồng chí
Phải giữ gìn tỉ mỉ
Như tròng mắt con ngươi
Đến cạn máu tàn hơi
Không xa rời kỉ luật
Phải trải lòng chân thật
Không một nét quanh co
Không một bóng lờ mờ
Không một nhăn ám muội!
Bụng nghe chừng biết tội
Từ đó hết nằn nì
Không dám thở than chi
Và tôi cười đắc thắng.
Người tù yêu nước, người chiến sĩ cách mạng đã chiến thắng. Một cuộc đấu tranh nội tâm bên trong thật ác liệt, không hề có tiếng súng nhưng rất dễ thương vong.
Nói kỹ về bài thơ này cũng bởi lẽ ngày nay căn bệnh tự diễn biến, tự chuyển hóa có nhiều nguyên nhân, nhưng một nguyên nhân cơ bản nhất chính là lòng tham. Vì quá ham muốn vật chất, tiền bạc, không chịu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu lòng tự trọng và xem thường danh dự nên nhiều cán bộ, ngay cả những người giữ chức vụ cao cấp đã tha hóa tệ hại. Đó cũng những bài học mà “Con cá và chột nưa” đã cảnh báo một cách cụ thể, chi tiết và mộc mạc ngay từ buổi đầu của cách mạng. Bởi vậy cho nên Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này đã từng nhắc nhở: Một tấm gương sống giá trị hơn nhiều bài diễn văn tuyên truyền. Chừng nào mà cán bộ cách mạng biết lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, biết sống nêu gương thì mọi người hoan hỉ tin tưởng nghe theo, ý Đảng chắc chắn sẽ gặp lòng dân, nhất hô bá ứng, việc dù khó mấy cũng sẽ thành.
Lao Bảo ngày xưa với Tố Hữu chỉ là hình ảnh ngục tù, nhưng đó cũng là trường học cách mạng thật sự quan trọng để hun đúc phẩm giá làm người, đặng sau này thật lòng phụng sự nhân dân và Tổ quốc.
P.X.D
(TCSH371/01-2020)
PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.
...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...
…Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…
NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)
Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.
VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)
NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.
NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.
PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.
ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".
HOÀNG KIM DUNG (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)
PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...