Nhà Nho hành đạo Đào Tấn trong thơ chữ Hán

14:55 05/07/2019

NGUYỄN ĐÌNH THU

Xét trên những thi phẩm viết bằng chữ Hán của Đào Tấn, chúng tôi nhận thấy có đầy đủ biểu hiện của ba kiểu loại ứng xử nhà nho: hành đạo, ẩn dật và tài tử. Tuy nhiên xuyên suốt và đậm nét hơn cả vẫn là loại hình nhà nho hành đạo.

Đào Tấn - Ảnh: internet

Khảo sát cụ thể sáng tác thơ chữ Hán của Đào Tấn, nhiều biểu hiện cho thấy tác giả vẫn sống đúng với phận vị của một bề tôi. Tết đến xuân về, Đào Tấn không quên gửi lời chúc tốt đẹp đến vua: Ngự Bình Nam vọng chiêm hoa đán/ Nguyện hiệu sơn hô đệ kỷ thanh (Ngóng về phương Nam nơi có núi Ngự Bình mà đón tết/ Xin tung hô nhiều lần chúc thọ nhà vua - Nhâm Dần nguyên đán thí bút). Trong mắt cụ Đào, đôi khi ngay cả cỏ hoa cũng mang ơn vua: Kỳ viên hoa thảo thượng quân ân (Hoa cỏ vườn chùa còn thắm đượm ơn vua - Dạ quá Hòa Quang tự ngẫu chiếm). Có lúc, kẻ bề tôi cô đơn lại hổ thẹn vì cảm thấy có lỗi với đấng tiên đế (Tự Đức): Tiên đế ủy vi kim nhật dụng/ Cô thần hoàn tác cố sơn mưu (Đấng tiên đế ủy thác cho ta phải làm công việc ngày hôm nay/ Nhưng kẻ bề tôi cô đơn này lại toan tính việc trở về non cũ - Vô đề), tựa như Nguyễn Khuyến từng trách mình: “Ơn vua chửa chút báo đền/ Cúi trông hổ đất ngửa lên thẹn trời” (Di chúc văn - Trần Tán Bình dịch). Và trong những lúc buồn rầu, cô đơn ấy, khi nghe tiếng cuốc kêu, Đào Tấn không khỏi bâng khuâng nhớ về vị vua cũ đầy tâm đắc, tri ngộ (Văn đỗ vũ). Xuất phát từ lý tưởng “Quân minh thần lương” nên khi vua quan nhà Nguyễn ngày càng sa sút, từ trong đáy lòng mình, Đào Tấn vẫn mong muốn có một vị vua sáng suốt, biết dựa vào dân như người anh hùng Lê Lợi để phò tá. Điều đó giải thích tại sao hai lần đi thăm di tích Lam Sơn (Thanh Hóa), tác giả đều có thơ ca ngợi Lê Lợi (Du Lam Sơn bái đề Lê Thái Tổ miếu, Trùng du Lam Sơn tuyệt cú). Tuy tư tưởng trung quân ở Đào Tấn không được phát biểu trực tiếp như Nguyễn Đình Chiểu từng nói: Trai thời trung hiếu làm đầu (Truyện Lục Vân Tiên) nhưng tác giả lại gián tiếp mượn hình ảnh bề tôi nổi tiếng trung với vua, sẵn sàng chết vì vua như Nhạc Phi (thời Nam Tống) để ngầm thể hiện điều đó: Đại nghĩa quân thần trọng/ Cô trung thiên địa tri (Nặng lòng vì nghĩa lớn vua tôi/ Ôm nỗi cô trung trời đất biết - Vịnh Nhạc Vũ Mục). Như vậy, nuôi lý tưởng trung quân vẫn là khát vọng mong manh của Đào Tấn trong chốn quan trường. Tuy nhiên, tiếng nói ơn vua, giữ phận làm tôi trong thơ ông không có được sự hùng sảng, khẳng định mạnh mẽ mà chỉ phảng phất, có phần mờ nhạt. Điều đó phù hợp với tâm trạng tác giả, với sự suy tàn của chế độ phong kiến nước ta cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.

Bên cạnh đạo vua tôi, Đào Tấn nổi bật hơn là một nhà nho luôn giữ lối sống phải đạo đối với những người thân. Người học trò họ Đào ấy dù đi đâu cũng không quên ân nghĩa của thầy (Sơ thu vãng yết nghiệp sư Nhơn Ân Nguyễn tiên sinh sơn phần cảm thuật). Khi làm quan nơi đất khách quê người, trong nỗi nhớ quê thường trực, Đào Tấn luôn thể hiện ước nguyện báo hiếu và nỗi nhớ mẹ già day dứt khôn nguôi. Đó còn là tình cảm anh em sâu nặng chỉ biết lấy rượu mà giải bày: Chước bãi hân nhiên hướng quân đạo (Rượu rót rồi khuây khỏa nói cùng em - Hoan thành dữ gia cửu đệ Khiêm Khiêm tử thoại cựu). Bao nhiêu thành đạt trên bước đường hoạn lộ, chẳng lúc nào ông không nghĩ tới công ơn của người vợ từ thuở hàn vi ở quê nhà Bình Định (Đợ áo cho ta rượu, lúc nghèo/ Bỏ nhà khi loạn, bế con theo/ không màng cảnh sống ngày vinh lạc/ So với nàng, ta thẹn xiết bao - Mai tăng đề ư An Tịnh tổng chế đường chi khiếu ngạo đông hiên, đương Thành Thái Quý Tỵ, hòa tiết, Vũ Ngọc Liễn dịch). Tình cảm phu thê thắm thiết, thủy chung được Đào Tấn bộc lộ trong nhiều thi phẩm của mình (Bệnh tích Diêu Tiên ái khanh thi dược hữu hiệu hí thư thị chi, Thọ Diêu Tiên phu nhân ngũ thập sơ độ, Thính Diêu Tiên khanh độc tao…). Đặc biệt, tác giả còn có cả một bài thơ khóc vợ: Tự cổ sinh ly túc cảm thương/ Tranh giao tử biệt tiện tương vương (vong)/ Hoang pha hà xứ phần tam xích/ Lão nhãn tha hương lệ sổ hàng… (Từ xưa đến nay, sống mà chia lìa đã là chuyện đau thương/ Huống chi sự chia lìa bằng cái chết, thế là mất nhau rồi/ Ngôi mộ ba thước đặt nơi gò hoang nào/ Ở đất khách, đôi mắt già rơi bao hàng lệ… - Điệu vong). Bài thơ vừa nói lên được cái triết lí tình cảm sâu sắc của con người, vừa là bài khóc vợ thống thiết thương đau. Bài thơ xứng đáng là một trong những tác phẩm ai điếu hay nhất trong văn học trung đại Việt Nam, bên cạnh Nguyễn Kiều (1694-1771) khóc thương Đoàn Thị Điểm, Ngô Thì Sĩ (1726-1780) với Khuê ai lục, Ngô Thì Nhậm (1746-1803) với Hoài nội, Phạm Thái (1777- 1813) với Văn tế Trương Quỳnh Như, Nguyễn Khuyến (1835-1909) với Điếu nội, v.v... Trong quan hệ với con, Đào Tấn là người cha mẫu mực, luôn quan tâm, lo lắng, khuyên bảo con những điều hay lẽ phải. Từ việc con đi lấy chồng, con đi học, đi ứng thí, hay đặt tên cho cháu, ông đều trăn trở và ký thác vào thơ (Giá nữ tiểu khúc, Ký nhi, Sinh tôn chu nguyệt mệnh danh Sư Kiệm thị nhi Thạch…). Qua đây, chúng ta thấy, Đào Tấn luôn quan tâm đến mọi sắc thái của tình cảm gia đình. Đó là biểu hiện của một tâm hồn nhà nho giàu tình cảm và phần nào mang cảm quan hiện thực. Bên cạnh đó, trong 141 bài thơ chữ Hán, thơ viết về bạn, viết cho bạn của cụ Đào cũng chiếm một số lượng khá lớn. Một lần tiễn bạn, bạn nhậm chức mới, bạn mất, hay những lúc ngồi một mình nhớ bạn,… tất cả đều có thể tạo thành nguồn cảm xúc vô tận để tác giả chấp bút thành thơ (Khấp Lan Nông Phan thượng thư cố hữu, Ký hoài Hà Đình công, Tống Hồ An Tăng cải phiên Phú Yên...).

Nói đến khí tiết trong sạch của cụ Đào, giới nghiên cứu thường lấy thi phẩm Đề mai sơn thọ viên của ông để minh họa:

Nhàn hướng Mai sơn bốc thọ viên,
Thạch đầu cao cứ tiếu vô ngôn.
Mai sơn tha nhật tàng mai cốt,
Ưng hữu mai hoa tác mộng hồn.


(Lên đỉnh núi Mai tìm đất thọ,
Mỉm cười lặng ngắm đá chon von.
Núi Mai rồi gửi xương mai nhé,
Ước được hoa mai hóa mộng hồn)
                        (Xuân Diệu dịch)

Bài thơ chuyển tải được vẻ thanh thản, ung dung, tự tại của một con người đã “tri thiên mệnh”, xem thường danh lợi, không còn quá lo lắng trước sóng gió cuộc đời. Cái “tiếu vô ngôn” ấy mang tinh thần “vô úy”, chứa chất nội lực đến mức “vô ngã” mà hòa nhập đến tận cùng vào trời mây cây cỏ. Khi rảnh rỗi tìm đất thọ, thản nhiên với một ngày mình sẽ nằm lại nơi này, ước tâm hồn biến thành hoa mai, chỉ bấy nhiêu thôi đã đủ nói lên nhân cách lớn của một bậc đại nhân. Mười năm làm quan gắn bó sâu nặng trên đất Lam Hồng, có lúc nhà thơ còn hóm hỉnh hỏi sông Lam núi Hồng để gián tiếp thể hiện khí tiết như tác giả cũng đã từng trực tiếp khẳng định tâm hồn trong sạch của mình qua thơ: Thập niên lai vãng Hồng Lam lộ/ Thanh khoáng ngâm hoài tự thử trung (Mười năm qua lại con đường núi Hồng sông Lam/ Thơ văn ta cũng trong sạch như cảnh nước non nơi đây - Hành bộ ngẫu đắc)...

Không chỉ “thanh, thận, cần”, Đào Tấn còn mang phẩm chất cương trực, cứng cỏi của một nhà nho “tiết tháo”: An đắc Linh Phong phong hạ kiến tiết lâu (Dễ đặng một ngôi nhà dành cho người tiết tháo dựng dưới chân núi Linh Phong - Hoan thành dữ gia cửu đệ Khiêm Khiêm tử thoại cựu). Ông tồn tại như một cây tùng, cây bách giữa trời, dày dạn nắng mưa (Vãng đăng Hồng Sơn phỏng Thiên Tượng phế tự xuất sơn hữu tác) như Nguyễn Trãi, hay Nguyễn Công Trứ cũng đã từng khẳng định. Đào Tấn đã hết lời ca ngợi những người bạn như thế: Bắc Hải hào tình dư khẳng khái (Khấp Lan Nông Phan thượng thư cố hữu), Hà xứ giai nhân không cốc trung (Tịnh am tôn thất tặng lan thư thử báo chi), Khởi thị tầm thường nhất hác mưu/ Thung dung tiến thoái thị hà vưu (Tống Hoàng Miễn Trai hiệp quỹ công trí sự).

Theo đạo đức Nho giáo, người quân tử sau khi đã tu thân, có được đạo đức; biết thi, thư, lễ, nhạc thì phải có bổn phận hành động nhập thế bằng con đường công danh. Con người nhà nho hành đạo trong thơ Đào Tấn cũng tỏ chí, cũng nói lên khát vọng của mình nhưng hẳn không phải là khát vọng công danh kiểu như Đặng Trần Côn từng tỏ bày: “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa/ Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao” (Chinh phụ ngâm) mà là khát vọng giúp dân, cứu nước. Nền văn hóa nông nghiệp lúa nước chúng ta vốn trọng tình và coi trọng khái niệm quốc gia nên đã biến khái niệm trung quân phải đi liền với ái quốc; pháp trị phải đi liền với nhân trị. Điều đó phù hợp với cách ứng xử của đại đa số nhà nho Việt Nam và cũng đúng với Đào Tấn. Khi vua với đất nước không còn là một thì trách nhiệm của nhà nho là trách nhiệm đối với đất nước, với nhân dân chứ không chỉ còn dừng lại ở trách nhiệm của một bề tôi đối với vua chúa.

Đứng về phía đất nước, nhân dân nhưng lại làm quan cho một triều đình bị phụ thuộc nên chí trai của Đào Tấn không có cơ hội để khẳng định mạnh mẽ, quyết liệt như Nguyễn Công Trứ: “Chí những toan xẻ núi lấp sông/ Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ” (Chí anh hùng); hay mang phong vị hào hùng của một tráng sĩ như Đặng Dung: “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch/ Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma” (Cảm hoài). Cái ngục văn tự treo trên đầu những nhà nho có cái tôi công dân như Đào Tấn, buộc họ phải tỏ chí theo kiểu truyền thống - thể hiện gián tiếp qua thiên nhiên, con người. Mượn nhân vật lịch sử là Trịnh Ninh, tác giả đã bày tỏ được khát vọng trừ gian diệt tà, mang lại thái bình cho đất nước: Nghịch tử cường thần đương nhật bối/ Khả tằng trảm đắc kỷ đầu lai (Đề Trịnh thị Ninh Quận Công thí kiếm thạch). Hỏi Trịnh Ninh đã chém được bao nhiêu cường thần nghịch tử, Đào Tấn cũng như hỏi chính bản thân mình. Câu hỏi tu từ không nhằm để biết mà để khẳng định lại dũng khí của một nhà nho đầy trách nhiệm đối với đất nước. Trước cảnh nước mất nhà tan, triều đình nhu nhược, nhà thơ canh cánh nung nấu khát vọng cứu dân giúp nước. Tiếng vọng của non sông đất nước, của phong trào Cần Vương Phan Đình Phùng nơi núi cao cứ ngân mãi trong lòng nhà thơ, khiến tác giả trăn trở nhiều đêm không ngủ được: Dạ trường bất đắc miên/ Minh nguyệt hà chước chước/ Tưởng văn tán hoán thanh/ Hư ứng không sơn nặc (Đêm dài không ngủ được/ Ánh trăng sao cứ lấp lánh?/ Đâu đây như có tiếng vang gọi/ Dội lại từ núi xa - Tý dạ ca nhị thủ). Và có những thi phẩm, Đào Tấn lại như nhắn nhủ, gửi gắm khát vọng đó ở những người bạn của mình: Thạch Thành sơn thủy hảo/ Tịnh nhập họa đồ trung (Tống Hồ An Tăng cải phiên Phú Yên). Câu thơ ngũ ngôn tự nhiên mà rất hàm súc, đầy ẩn ý. Nói đến cảnh đẹp non nước phải chăng là tác giả đang ca ngợi phong trào cách mạng chống Pháp nơi đây, và khuyên bạn nên hòa mình vào giúp đỡ mọi người. Trong thơ chữ Hán Đào Tấn, tinh thần yêu nước còn được bộc lộ khá rõ, ở việc tác giả có hàng loạt những bài thơ khóc thương, ca ngợi những người anh hùng xả thân vì nước như: Hoàng Kế Viêm, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Hoàng Quang Viễn...

Có thể nói, trong thời buổi đen tối nhất của lịch sử, Đào Tấn đã chọn cách ứng xử linh hoạt, vì chẳng bao lâu sau, phong trào Cần Vương của Đào Doãn Địch - Mai Xuân Thưởng ở Bình Định, của Phan Đình Phùng ở Nghệ Tĩnh bị dập tắt, sự nghiệp cứu nước của Phan Bội Châu cũng không thành. Ông đã tìm con đường đi phù hợp theo quan điểm nhận thức lịch sử của bản thân, chọn “lối đi bình dị” mà lên đến đỉnh non (Chỉ tùng bình dị quá sơn điên - Sơn hành ngẫu đắc). Phải chăng, đối với Đào Tấn, làm quan là kiểu “đại ẩn” tốt nhất để vừa mưu sinh, có thời gian chăm lo sự nghiệp soạn tuồng, vừa có điều kiện giúp đỡ các phong trào cách mạng, tìm ra đường lối cứu nước. Trên cơ sở những tư liệu lịch sử cũng như qua sáng tác thơ văn, chúng ta có thể khẳng định, mặc dù không có những hành động dứt khoát, mạnh mẽ trong việc chống lại triều đình phong kiến tay sai và thực dân pháp, không trực tiếp tham gia các phong trào cách mạng nhưng tâm thế của ông vẫn luôn hướng về cách mạng, về vận mệnh của đất nước.

Khác với tấm lòng yêu nước phải thổ lộ một cách kín đáo, tình cảm thương dân của Đào Tấn phần nào được bộc bạch trực tiếp hơn. Ở Đào công, tình cảm thương dân vừa xuất phát từ tinh thần của một nhà nho “dĩ dân vi bản”, vừa xuất phát từ truyền thống của một dân tộc giàu lòng nhân đạo và đoàn kết. Hơn nữa, chính ông cũng xuất thân từ một vùng quê nghèo Tuy Phước - Bình Định. Do đó, trong thơ, tâm hồn ông đã thực sự hòa nhập vào đời sống của nhân dân, vui buồn cùng người dân, chứ không còn khoảng cách xa lạ, tự đặt mình cao hơn những người lao động, lấy người dân để khẳng định vai trò của mình như một số sáng tác của vua quan, nho sĩ thế kỷ XV. Đi ngang qua những cánh đồng, nhà thơ không khỏi lo lắng, xót thương cho người dân vì nắng hạn: Xuân, hạ tồ thu thốn trạch vô/ Cao đê, điền mẫu thái tiêu khô (Từ xuân, hạ đến thu vẫn chưa có giọt mưa nào/ Đồng thấp, đồng cao đều khô cháy cả - Thương hạn). Rồi một ngày mưa xuống, ông lại tràn ngập niềm vui: Vạn kim hảo vũ tán nguyên điền/ Tẩy tịnh viêm trần lục nguyệt thiên (Cơn mưa lành như muôn vàng rải xuống ruộng đồng/ Rửa sạch lớp bụi nóng của tiết trời tháng sáu - Hỷ Vũ). Không dừng lại ở đó, Đào Tấn còn có sự hiểu biết sâu sắc và đồng cảm thực sự với nỗi khổ của người nông dân. Thi nhân ai cũng bảo nhà nông sướng, Đào Tấn lại thấy nhà nông rất đáng thương: Ngũ nguyệt, lục nguyệt bất vũ thiên/ Đạp xa nhi nữ ca thả miên/ Thi nhân mỗi đạo điền gia lạc/ Như thử điền gia tối khả liên (Thủy xa), rồi hiểu được ngàn nỗi lo của người dân sau ba ngày tết: Đồng du tam nhật xuân/ Trúc phù khan phóng hạ/ Thiên lự hựu thùy nhân (Tân sửu trừ tịch). Đặc biệt, trong thời buổi “súng giặc đất rền”, ông rất buồn cho những cảnh tan tác, chia ly: Thùy gia trú trạch Bắc sơn ôi/ Loạn hậu bô nhân thượng vị hồi (Nhà ai dựng ở hẻm núi phía Bắc/ Sau khi loạn, người đi trốn vẫn chưa về - Kinh phế trạch). Và có lúc không kìm nén được lòng mình, tác giả đã thốt lên lời ai oán, xót thương cho những người dân vô tội trong cơn loạn lạc: Thử địa tùng tiền diệc phú nhiêu/ Khả liên loạn hậu bán tiêu điều (Chốn này trước kia là nơi trù phú/ Thương thay sau cơn loạn lạc bị xơ xác đến một nửa - Vô đề). Tấm lòng xót xa của Đào Tấn trước cảnh bể dâu ấy đã bắt gặp được sự đồng điệu ở Nguyễn Du (Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng - Truyện Kiều), hay ở Nguyễn Đình Chiểu (Bến Nghé của tiền tan bọt nước/ Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây - Chạy giặc).

Một biểu hiện khác trong con người nhà nho hành đạo còn giữ được lương tâm trong cảnh “trời đất nổi cơn gió bụi” ; trong nhiều bài thơ của mình, Đào Tấn đã vẽ nên bức tranh biếm họa về sự thối nát không thể cứu vãn của một bộ máy chính quyền phong kiến nhà Nguyễn. Giang Nam xứ xứ phong yên khỉ/ Hải thượng niên niên ngự tửu lai (Phương Nam chốn chốn khói lửa dậy/ Mặt biển năm năm rượu ngự về (Tịch thượng tác - Xuân Diệu dịch). Đối lập giữa cảnh binh đao, khói lửa của nhân dân lục tỉnh Nam kỳ với cảnh tiệc tùng của triều đình cùng bọn phương Tây, bản thân nó đã cất lên tiếng nói phê phán, tố cáo đối với thói ích kỷ, chỉ biết hưởng thụ cá nhân mà phớt lờ đi nỗi nhục mất nước.

Nhìn lại con người Đào Tấn trong thơ, ta thấy toát lên hình ảnh một nhà nho hành đạo nhưng có phần ly tâm, xa chính thống. Về hình thức, ông vẫn làm quan nhưng tâm hồn thì đã hướng hẳn về phía nhân dân, cách mạng; hướng vào quan hệ gia đình, bạn bè, thiên nhiên hơn là nói chí trung quân, tỏ lòng khát vọng công danh. Ông là một nhà nho thức thời, linh hoạt xuất xử trong tình cảnh mất nước, nặng lòng với nước, với dân. Trên lĩnh vực văn chương, tác giả đã có những thi phẩm thực sự có giá trị đóng góp vào sự phát triển của dòng thơ văn yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Qua đó, chúng ta có thể khẳng định, bản thân con người Đào Tấn là hiện thân cho sự chuyển hóa của tầng lớp nho sĩ cuối mùa.

N.Đ.T  
(TCSH363/05-2019)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.