Nhã nhạc - âm nhạc cung đình Việt Nam - kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu nhân loại

16:40 24/06/2009
PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

Ngoài 19 Kiệt tác đã được công bố vào ngày 18 tháng 5 năm 2001, lần này trong 28 Kiệt tác được ghi nhận có 03 Kiệt tác thuộc khối Ả Rập, 11 Kiệt tác thuộc Châu Á - Thái Bình Dương, 06 Kiệt tác thuộc Châu Mỹ La tinh - Caribê và 02 Kiệt tác thuộc Liên Quốc Gia (vùng Ban-tich và Tajikistan-Uzbekistan).

Nhã nhạc - Âm nhạc Cung đình Việt Nam (Nha nhac, Vietnamese Court Music) là Di sản Văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại. Ðể có được sự tôn vinh cao quý này Nhã nhạc đã phải vượt qua gần 200 hồ sơ ứng cử ở vòng loại để bước vào vòng chung khảo gồm có 56 hồ sơ đã được Hội đồng Âm nhạc Truyền thống Quốc tế, Hội đồng Khoa học Xã hội Nhân văn và Triết học Quốc tế, Hiệp hội Múa rối Quốc tế, Học viện Sân khấu Quốc tế và Hội đồng các Bảo tàng quốc tế là các tổ chức phi chính phủ thẩm định và thông qua. Các hoạt động tích cực về bảo tồn và phát huy giá trị di sản Nhã nhạc Cung đình liên tục được đẩy mạnh ở khu di sản văn hóa Huế trong thời gian này là rất cần thiết và góp phần không nhỏ cho các bước tiếp theo. Một Hội đồng thẩm định cấp cao do chính Tổng giám đốc UNESCO chỉ định gồm có 18 thành viên và một tổ tư vấn thuộc Vụ Di sản Văn hóa của UNESCO do nhà văn Juan Goytisolo (Tây Ban Nha) làm chủ tịch đã nhóm họp từ ngày 03 đến ngày 06 tháng 11 năm 2003 để đi đến quyết định cuối cùng về việc ghi danh Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại thông qua việc bỏ phiếu kín.

Hồ sơ ứng cử của Việt Nam do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xây dựng dưới sự chỉ đạo của Văn phòng Chính phủ, Bộ Văn hóa Thông tin, Cục Bảo tồn Bảo tàng (nay là Cục Di sản Văn hóa), Ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam và Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã được chuẩn bị từ tháng 04 năm 2002. Các GS.TS Tô Ngọc Thanh, GS Trần Văn Khê, PGS.TS Vũ Nhật Thăng, Nhạc sĩ Ðặng Hoành Loan, GS.Tô Vũ, Th.S Văn Thị Minh Hương... đại diện các tổ chức, ban ngành cùng các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, các nghệ nhân và gia đình nghệ nhân ở Huế cũng như các tập thể và cá nhân trong nước và quốc tế, đặc biệt là bà Noriko Aikawa, Giám đốc Vụ Di sản Văn hóa Phi vật thể của UNESCO; GS.TS Tokumaru Yoshihiko (Nhật Bản)... đã có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng bộ hồ sơ này. Ðây là một hồ sơ khoa học đầy tính thuyết phục và mang tầm quốc tế, đáp ứng các tiêu chí chặt chẽ, nghiêm ngặt của Công ước Quốc tế về Bảo tồn Di sản Văn hóa Phi vật thể đã được chính thức thông qua tại Kỳ họp lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO (năm 2001 Công ước này chỉ là dự thảo). Về khối lượng hồ sơ này bao gồm các tài liệu bao gồm tiếng Việt, Anh, Pháp, Hán. Bản viết có 55 trang kèm theo 118 ảnh chụp, 118 phim slide, phim vidéo 10 phút, 65 phút và 120 phút. Phụ lục hồ sơ gồm 3 phần:

1. Các Văn bản Pháp quy của Nhà nước CHXHCNVN trong đó đặc biệt là Luật Di sản Văn hóa với các nội dung về Bảo tồn và Phát huy Giá trị Di sản Văn hóa Phi vật thể, kể cả các giá trị văn hóa vật thể mà Quần thể Di tích Cố đô Huế đã được UNESCO công nhận và cùng với nó là sự không tách rời của Nhã nhạc Cung đình Huế - Âm nhạc Cung đình Việt Nam. Các chủ trương chính sách bảo tồn và phát huy giá trị cũng như nêu lên các nguy cơ có thể bị mai một của loại hình văn hóa này.

2. Tư liệu gốc, thư tịch cổ về Âm nhạc Cung đình nói chung và về Huế nói riêng (chủ yếu bằng chữ Hán).

3. Sự lan tỏa của Âm nhạc Cung đình thông qua các tư liệu, ấn phẩm... (tiếng Việt, Pháp, Anh...)

Hội đồng thẩm định mà UNESCO đã đánh giá là Nhã nhạc - Âm nhạc Cung đình Việt Nam mang ý nghĩa "âm nhạc tao nhã". Nhã theo nghĩa Hán Việt là lịch sự, trang nhã song cũng có ý nghĩa là đàng hoàng, phân minh. Nhạc là âm nhạc. Với cách biểu đạt ngôn từ như vậy thì Nhã nhạc có chức năng là âm nhạc cung đình dành riêng cho tầng lớp vua chúa phong kiến. "Song ngược lại trong cung đình Việt Nam, không có sự thuần chất này. Trong lịch sử ngoài giai đoạn nhà Lê, còn các khoảng thời gian khác hầu như yếu tố dân gian luôn chi phối các hoạt động âm nhạc cung đình... Ðây là điểm khác biệt so với một số nước"(1). Theo các nguồn tư liệu thì Nhã nhạc có nguồn gốc từ thế kỷ 13 nhưng chỉ đạt đến mức độ điêu luyện tại cung đình Huế, dưới triều Nguyễn (1802-1945) có những nguyên nhân đe dọa sự thất truyền của thể loại âm nhạc này. Song ngày nay vẫn còn một vài nhạc công xưa của cung đình còn sống đang cố gắng làm sống lại truyền thống này và truyền đạt kỹ năng của họ cho thế hệ trẻ và là một nguồn cảm hứng cho âm nhạc trong các dịp tế lễ, các lễ hội dân gian và cho âm nhạc Việt Nam đương đại.

Như lời nhấn mạnh của ông Koichiro Matsuura, Tổng giám đốc UNESCO trong lần công bố "mục đích sự công bố này không đơn giản chỉ là thừa nhận giá trị của một vài yếu tố của di sản phi vật thể mà đòi hỏi các quốc gia phải cam kết thực hiện các kế hoạch nhằm phát huy và bảo vệ các kiệt tác được ghi danh vào danh mục".

Cũng như cách đây 10 năm, Di sản Văn hóa Huế được tôn vinh với các giá trị văn hóa vật thể thì ngày nay với sự tôn vinh giá trị văn hóa phi vật thể của cộng đồng nhân loại đối với di sản văn hóa này lại cũng là một lần nữa tăng thêm niềm tự hào và trách nhiệm vô cùng lớn lao, nặng nề đối với quốc gia, đối với địa phương Thừa Thiên Huế và đặc biệt là đối với cơ quan, cá nhân đã đăng ký và cam kết với UNESCO về "những cá nhân, tổ chức chịu trách nhiệm đăng ký và thực hiện chương trình phục hồi, bảo tồn và phát huy giá trị Di sản Nhã nhạc Huế". Di sản Văn hóa là vốn quý của quốc gia và dân tộc, là bộ phận cấu thành không tách rời của Di sản Văn hóa của nhân loại. Sự trường tồn của một Di sản chủ yếu sẽ phụ thuộc vào sự nỗ lực và ý thức của con người ngày hôm nay và sự tiếp nối của các thế hệ mai sau và nếu được sự tốt đẹp như vậy thì nó sẽ vượt qua được mọi thử thách của thời gian và các tác động của cuộc sống mới để luôn được bảo tồn và tỏa sáng. Ðiều này rất cần thiết với Di sản Huế, Di sản với 2 lần được thế giới thừa nhận sự nổi bật toàn cầu về giá trị văn hóa.

P.P

(178/12-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

  • YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

  • VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNGọi tên hoa súng: LỤC HÀGọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sôngGọi TRẦN KIÊM: họ sắc... khôngGọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang