Nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Thượng Hiền với bài thơ “Đưa đồng bào”

14:37 29/05/2023


THƠM QUANG - NGUYỄN DUYÊN

Mộc bản sách "Quốc triều đăng khoa lục", quyển 03, mặt khắc 14 ghi tên Nhà khoa bảng Nguyễn Thượng Hiền - Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Trong những năm qua, nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước cùng với một số cơ quan lưu trữ, bảo tàng đã có những nỗ lực trong việc sưu tầm, thu thập tài liệu lưu trữ quý, hiếm của Việt Nam và về Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài. Trong chuyến công tác năm 2013, tại đất nước Pháp, các cán bộ, viên chức của Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV đã vô cùng may mắn khi sưu tầm được nhiều tác phẩm quý, hiếm của các tác gia Việt Nam, trong đó có bài thơ “Đưa đồng bào” của tác giả Nguyễn Thượng Hiền. Xin được trân trọng giới thiệu đến bạn đọc.


 

Thân thế, sự nghiệp của Nguyễn Thượng Hiền

Nguyễn Thượng Hiền có tự là Đỉnh Nam, sinh năm 1866 trong một gia đình Nho học tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội). Sinh thời, Nguyễn Thượng Hiền sử dụng nhiều tên hiệu khác nhau như Mai Sơn, Long Sơn, Thiếu Mai Sơn Nhân, Giao Chỉ Khách, Bão Nhiệt, Đỉnh Thần. Thân phụ của Nguyễn Thượng Hiền tên là Nguyễn Thượng Phiên, thi đỗ Hoàng giáp khoa Nhã sĩ niên hiệu Tự Đức thứ 18 (1865), từng giữ chức Tham tri bộ Công, rồi
Thượng thư bộ Công.

Sinh ra trong một gia đình quan lại, quý tộc, từ nhỏ Nguyễn Thượng Hiền đã bộc lộ tư chất thông minh, hiếu học. Khoa thi Hương năm Giáp Thân (1884), tại trường thi Hà - Nam (trường thi Hà Nội và trường thi Nam Định thi chung nên gọi tên như thế), Nguyễn Thượng Hiền thi đỗ Cử nhân. Một năm sau, tức năm Ất Dậu (1885), ông đỗ đầu kỳ thi Hội nhưng chưa kịp xướng danh thì kinh thành Huế thất thủ, ông lui về ở ẩn tại núi Nưa, Thanh Hóa. Ðến khoa thi Đình năm Nhâm Thìn, niên hiệu Thành Thái thứ 4 (1892), ông tiếp tục thi đỗ Hoàng giáp hay còn gọi là Tiến sĩ xuất thân. Mộc bản sách Quốc triều đăng khoa lục, quyển 03, mặt khắc 14 còn ghi danh bảng vàng tên ông như sau:

Nguyễn Thượng Hiền 阮 尚 賢
Sắc ban đệ Nhị giáp (Tiến sĩ xuất thân)
(Hai đời đỗ liên tiếp)
Sinh năm: Bính Dần (1866).
Quê quán: Liên Bạt, Sơn Lãng, Hà Nội.
Đỗ Cử nhân khoa thi năm Giáp Thân (1884).
Đỗ Tiến sĩ xuất thân năm 27 tuổi.

Khoa thi Hội năm Ất Dậu (1885) ông thi đỗ; đến khoa thi Đình, bài văn của ông đạt 3 điểm, nhưng vì kinh thành có biến nên chưa kịp truyền lô. Đến khoa thi này ông dự thi, lại tiếp tục đỗ.

Ông là con của Hoàng giáp khoa Nhã sĩ Nguyễn Thượng Phiên.

Sau khi thi đỗ, Nguyễn Thượng Hiền bước vào con đường quan lộ. Ban đầu, ông được bổ chức Hậu bổ, thực hiện việc biên soạn quốc sử về triều Nguyễn. Năm 1901, Nguyễn Thượng Hiền được thăng chức Ðốc học ở Ninh Bình (1901), Hà Nam (1905), Nam Định (1906). Vì từng giữ chức Đốc học Nam Định nên người đời thường gọi ông là ông Đốc Nam.

Mặc dù xuất thân trong một gia đình phong kiến nhưng Nguyễn Thượng Hiền lại là một người yêu nước, ông đồng cảm với nỗi điêu đứng của nhân dân. Trước cảnh nước mất nhà tan, Nguyễn Thượng Hiền đã sớm có ý thức làm cách mạng. Trong thời gian ở Huế, ông tìm đọc Thiên hạ đại thế luận của Nguyễn Lộ Trạch, đọc nhiều tân thư của Trung Quốc, kết giao với nhiều sĩ phu yêu nước như Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... Chính nhờ Nguyễn Thượng Hiền mà một số sĩ phu yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đã biết đến những tư tưởng duy tân tiến bộ của Nguyễn Lộ Trạch và nhất là những tư tưởng mới mẻ trong tân thư Trung Quốc. Từ năm 1898, qua giao tiếp với Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Thượng Hiền đã quyết chí Ðông Du nhưng vì phụ thân bệnh nặng nên ông đành ở lại và tự nhận nhiệm vụ vận động cách mạng trong nước.

Năm 1907, sau khi thọ tang cha, ông từ quan về vườn. Mấy tháng sau, ông bí mật ra đi, không cho một ai hay, cả cụ bà cũng không biết. Ông cải trang làm đàn bà, dò đường Móng Cái qua Quảng Đông tìm Tôn Thất Thuyết là nhạc gia của ông. Sau ông liên lạc với Phan Bội Châu trong Duy Tân hội rồi Việt Nam Quang phục hội, qua Nhật rồi lại về Trung Quốc, cho tới khi chán ngán vì bọn “trành” mà đồng chí sa lưới gần hết, ông đầu cửa Phật ở Hàng Châu (tỉnh Chiết Giang), rồi mất ở đó ngày 28/12/1925. Theo di chúc, thi hài ông được hỏa táng, nắm tro tàn được rải xuống sông Tiền Ðường để linh hồn ông theo dòng nước ra biển Ðông về lại với quê hương.

Yêu nước thương dân

Nguyễn Thượng Hiền là một nhà cách mạng yêu nước. Vì độc lập của Tổ quốc, ông cổ vũ việc Duy Tân, quyết theo khuynh hướng dân chủ. Nguyễn Thượng Hiền không những là một nhà cách mạng chân chính mà còn là một nhà văn yêu nước, một thi sĩ tài hoa nổi tiếng trong giới sĩ phu đương thời.

Không chỉ là một chí sĩ yêu nước nổi bật cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nguyễn Thượng Hiền còn được giới nghiên cứu văn học đánh giá là một trong những tài năng văn chương lớn cuối cùng của văn học trung đại Việt Nam. Thơ ông dùng để phục vụ cho công cuộc đấu tranh chống giặc cứu nước, gồm hơn 600 bài thơ, văn bằng chữ Hán, chữ Nôm, sáng tác trong khoảng 30 năm, từ 1885 đến 1918. Bài thơ “Đưa đồng bào” của ông được viết vào năm Mậu Thân (1908) với bút danh Mai Sơn. Nội dung bài thơ như sau:

3 trong 7 trang bài thơ “Đưa đồng bào” của tác giả Nguyễn Thượng Hiền được Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV sưu tầm về từ Pháp - Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

“Tôi từ thuở Hàm Nghi Ất Dậu (1885)
Trong tháng Năm thất thủ kinh thành
Non sông nổi trận bất bình
Những toan lựa nghĩa quyên sinh cho rồi
Khéo lơ lửng còn ngồi lại đó
Vì việc nhà trên có lão thân
Dễ niềm ái quốc trung quân
Lục nga trước phải đền ơn cho tròn
Nay
 đã vẹn thần hon hai chữ
Bước chóng vu ai dự được mình
Tôi son thệ với trời xanh
Ra tay cứu vớt sinh linh phen nầy
 bánh lái đề mây cỡi gió
Cánh buồm vương thẳng chỗ bể khơi
Quan sơn cách mấy dặm dài
Chút thân còn gởi phương trời xa xa
Khi mới bước chân ra ngoại cõi
Nỗi bi toan biết nói cùng ai
Thương ôi vận nước  trời
Trông về cố quốc ngậm ngùi xiết bao
Nay ta khóc cớ sao  khóc
Khóc non sông một chút tan tành
Gần xa những giấu hôi tanh
Mây đen  tối kéo quanh bốn bề
Nay ta khóc khóc về miếu 
Công dựng ra kể đã mấy đời
Bây giờ cây dậm cỏ dời
Đền trong chuột nhảy, sàn ngoài cáo kêu
Nay ta khóc trời cao khôn hỡi
Khóc đêm ngày về nỗi vua ta
Mênh mông bể thẳm trời xa
Trông người đỡ gót biết  năm nao
Nay ta khóc dạt dào chan chứa
Khóc thảm thương  sự dân mình
 ai khốn khổ lênh đênh
Dẫu kêu ai  thương tình chi đâu
Nay ta khóc mối sầu xiết kể
Khóc những người chung nghĩa năm xưa
Một phen gãy giáo bay cờ
Bỏ đi muôn dặm biết giờ còn không
Nay ta khóc tấm lòng thảm thiết
Khóc những người khí tiết phen này
Kể ra ái quốc  hay
Tội chi  phải khóa tay buộc mình
Nay ta khóc thế tình cũng lạ
Khóc những người chức cả ngồi cao
Đành thân tôi tớ quảng bao
Sao không biết thẹn chút nào ai ôi
Nay ta khóc nhân tài  dụng
Khóc những người quần rộng áo dài
Ngẩn ngơ  vẩn chút đời
Trung hưng đã được mấy người lo xa
Nên đành nhữ trông ra một bể
Hội đua tranh ai kể nhường ai
Kìa ai bay nhảy khoe tài
Riêng ta dậm gót thua người sao đây
Hai hàng lệ tuôn đầy mạch nước
Nông nổi kia càng nói càng đau
Ai ơi ý chí tương đầu
Nghe ra  nghĩ cho nhau hay 
Xong  cực vẫn đà khai thái
 danh trương chống lại phong trần
Lo chi những lúc gian truân
Một thành hạ cũng  tuần trung hưng
 loan cực nhẽ hằng tự trị
  dân biết nghĩ gần xa
Sở tuy còn  mấy nhà
Cứng tay vật lại sơn  tổ long
Cõi Nam cực non sông sinh tử
Ngẫm xưa kia vẫn  anh hùng
 nay hết vận hanh thông
Trời không chán loạn đất không sinh lời
 ta cứ thảnh thơi ngồi đấy
Sự hiểm nguy toan đẩy cho ai
Chọn điều dễ dãi làm chơi
 đôn việc khó cho người sao đang?
Nghĩ nỗi ấy lòng càng hưng hở
Bước chân ra thẳng duỗi đường mây
Sắt son giữ một niềm ngay
Dẫu khi muôn một thân này kể chi
Tôi nay lại ngồi suy sự thế
Việc không vương  dễ được nào
Một cây không chống nhà cao
Thuyền con vượt bể Đông chèo mới qua
Khuyên nước ta những người tài chí
Cùng nghĩa dân nghĩa  mọi nơi
Nghĩ cho công việc tày trời
Giúp tay ai cũng như ai một lòng
 tôi nghĩ còn không thấu nhẽ
Xin đồng bào tỏ vẻ cho hay
Nhiều phen chống gió ngăn mây
Thiếu đâu chấp chính sự này mới xong
Nỗi gian nguy ta càng gắng sức
Tấm lòng kia giữ chặt không lay
Việc người ta kính đã hay
Cơ trời bằng cũng đổi sang khó gì
Mây mù ấy quét đi chẳng để
Bóng tam quang rạng vẽ lưng trời
Mai sau hẳn được như lời
Non sông rửa thẹn muôn đời tiếng thơm”.

Với hơn 100 dòng thơ, Nguyễn Thượng Hiền đã nói rõ lòng mình trước thế sự đổi dời. Ông thề rằng sẽ thực hiện hết mình vì đất nước để không phải hổ thẹn. Kết lại bài thơ, Nguyễn Thượng Hiền viết “non sông rửa thẹn muôn đời tiếng thơm” đã thể hiện ý chí sắt son yêu nước, thương dân và một lòng đánh tan quân giặc giành lại hòa bình cho dân tộc. Qua bài thơ “Đưa đồng bào”, một lần nữa cho thế hệ trẻ hôm nay có một cái nhìn mới về Nguyễn Thượng Hiền nói riêng và những người chí sĩ yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX nói chung. Họ là tấm gương về lòng yêu nước thiết tha, cháy bỏng, về sự quyết liệt trong hành động, về niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

T.Q - N.D
(TCSH410/04-2023)


----------------------------
* Những chữ tô đậm trong bài thơ: Do chất lượng ảnh chụp của một số trang ghi chép bài thơ không được rõ nét nên một số chữ trong bài thơ chúng tôi còn nghi ngờ nên tạm thời tô đậm lại.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Hồ sơ số 29, Sưu tập Danh mục tài liệu quý hiếm của Việt Nam và về Việt Nam tại Cộng hòa Pháp.
2. Hồ sơ số 28, Sưu tập Danh mục tài liệu quý hiếm của Việt Nam và về Việt Nam tại Cộng hòa Pháp.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN THANH HẢIDưới thời quân chủ, hầu như ở tất cả các nước phương Đông đều có tục tế giao. Tế giao tức là tổ chức nghi lễ cúng để con người có thể giao tiếp được với trời, đất và các bậc thần linh.

  • LÊ NGUYỄN LƯUI. QUAN NIỆM VỀ SỐNG CHẾT

  • HUỲNH ĐÌNH KẾT

    Di tích cảnh quan Huế là một bộ phận cấu thành diện mạo văn hoá Huế. Ngày nay, di tích cảnh quan được quan niệm là loại hình văn hoá vật thể (Tangible culture) trong hàm nghĩa phân biệt với văn hoá phi vật thể (Intangible culture). Dẫu sao cũng chỉ tương đối.

  • LIỄU THƯỢNG VĂNCố đô Huế, một trong những trung tâm văn hoá, lịch sử của Việt Nam. Không những thế, Huế còn là một tổng thể di tích quan trọng, sánh hàng kì quan trên thế giới. Cố đô thơ mộng mang đầy tính nghệ thuật lẫn với cái nét sâu thẳm, ẩn bóng của học thuật Đông phương và truyền thống dân tộc…

  • NGUYỄN HÀO HẢITrong lịch sử, việc làm những đồ nghệ thuật giả chỉ bắt đầu xuất hiện ở những xã hội có đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần khá phát triển.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNChuyện xưaGiờ đây, những vị tham gia biên dịch Mục lục Châu bản Triều Nguyễn (MLCBTN) trong Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã lần lượt quy tiên. Chỉ còn lại một người cuối cùng đang dưỡng lão trong một ngôi nhà khá yên tĩnh dưới bóng những lùm cây sớm chiều toả mát trong một xóm ven sông Cẩm Lệ, thuộc huyện Hoà Vang, ngoại ô Đà Nẵng. Đó là bác Ngô Văn Lại, năm nay ngoài tuổi bảy mươi.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGCó những câu hỏi đặt ra, Huế mãi không có câu trả lời thuyết phục:* Tại sao mặt hàng lưu niệm trong thị trường du lịch, trong các lễ hội Festival là nghèo nàn đến thế! Sản phẩm thủ công Huế lác đác chen chúc khuất lấp trong lớp lớp hàng Trung Quốc và các tỉnh khác trong nước?* Tại sao trong quá trình trùng tu, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lại phải mời thợ từ "Đàng Ngoài" trong nhiều khâu kỹ thuật từ sơn, thếp, mộc, làm ngói men, gạch bát tràng...?* Tại sao nhà phục chế Trịnh Bách lại phải sống ở Hà Nội, để gửi vào Huế những tấm long bào, long cổn, hia, mão và kể cả những phiên bản phục chế men lam thời Nguyễn?...

  • HOÀNG ĐẠO KÍNHVăn hoá xứ Huế là một hiện tượng: sinh sôi và thịnh vượng trong khoảng thời gian và không gian địa lý hạn hẹp. Cả hai nhân tố, vật thể lẫn phi vật thể, đều kịp đạt đến trình độ cao và thấm đậm những cái riêng, so với các thời kỳ lịch sử trước đó và so với các miền đất khác. Di sản văn hoá xứ Huế không chỉ phong phú, không chỉ đặc sắc, mà còn kiệt xuất, bởi nó sở hữu rất nhiều những cái duy nhất.

  • BEATRICE KALDUN         (Nhân viên chương trình Văn hoá của UNESCO tại Bangkok)Xin chào quý vị đại biểu!Hôm nay, tôi xin bày tỏ sự vui mừng khi có mặt tại đây, đại diện cho Ngài Richard Engelhardt, Cố vấn Văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương tham gia cuộc Hội thảo về vấn đề bảo tồn và phát triển hội nhập của Huế, một trong những di sản quý giá nhất của Việt Nam và Thế giới.

  • PHAN THUẬN ANSự quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt Nam đã bắt đầu có từ hơn 50 năm về trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong vòng vài chục năm trở lại đây. Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Bộ Văn hóa Thông tin nước chủ nhà đã đóng góp những vai trò xúc tác quan trọng trong mối quan hệ làm việc giữa tổ chức UNESCO đóng tại Paris và các quan chức Việt Nam ở những tỉnh có di sản văn hóa và di sản thiên nhiên nổi bật.

  • PHAN TIẾN DŨNGHuế một vùng non sông kỳ tú, với sự sáng tạo của con người đã lưu giữ trong lòng mình những tài sản vô cùng quý giá. Một trong những giá trị nổi bật mang tính toàn cầu là Quần thể Di tích Huế đã được công nhận vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới (World Heritage List) ngày 11-12-1993. Bên cạnh đó, Huế còn là hội điểm về những di sản vật thể vừa phong phú vừa đa dạng. Từ mảnh đất này đã hình thành nên những phong cách, tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật, đã sinh thành nhiều tài năng, đã hội tụ nhiều danh nhân để góp phần nên một Huế vừa mang đặc trưng bản sắc Việt Nam, vừa có sắc thái riêng của một vùng đất Cố đô.

  • NGUYỄN VĂN MỄ                    (Trích)Huế - thành phố lịch sử, một trung tâm văn hóa du lịch, là vùng đất có bề dày văn hóa với những tầng văn hóa khác nhau: di chỉ Khảo cổ học thời Tiền, Sơ sử; các dấu tích của văn hóa Sa Huỳnh; văn hóa Chămpa; văn hóa Đại Việt... và vô cùng quan trọng là hệ thống di tích Cố đô được xây dựng dưới vương triều Nguyễn.

  • LƯU TRẦN TIÊUHiếm có một miền đất nào mà ở đó những giá trị văn hóa lại đậm đặc, phong phú, đa dạng và đặc sắc như ở Huế. Từ góc nhìn địa - chính trị - văn hóa, xứ Huế xưa như là một vị trí chiến lược trọng yếu, vừa là cầu nối, vùng đất mở, vừa là nơi diễn ra sự chồng lấn, dung hợp, tiếp biến các vùng văn hóa, các dòng văn hóa để tạo dựng thành một trung tâm văn hóa trên cái nền chung của văn hóa Việt Nam, lóng lánh những nét riêng đặc sắc của mình.

  • NGUYỄN QUỐC HÙNGNăm nay, chúng ta kỷ niệm 10 năm Quần thể Di tích Kiến trúc Huế được ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO, 10 năm với rất nhiều thành tựu đổi thay. Nhớ lại chỉ sau 5 năm trở thành Di sản Văn hóa Thế giới, Tiến sĩ Richard Engelhardt chuyên gia về văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã mạnh dạn tuyên bố: “tình trạng cứu nguy khẩn cấp của khu di tích Huế đã qua đi” và “chúng ta chuyển từ giai đoạn khẩn cấp sang giai đoạn ổn định trong chiến dịch vận động bảo tồn di tích Huế”(1)

  • NGUYỄN KHOA ĐIỀMTrong các di sản văn hoá ở nước ta, Huế giữ một vị trí đặc biệt. Chính vì thế mà ngay sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giữa bộn bề công việc, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho di sản văn hoá Huế sự quan tâm thích đáng. Dù chưa tập hợp được hồ sơ đầy đủ, chưa có được nguồn kinh phí thoả đáng, nhưng từ năm 1979, Nhà nước ta đã có văn bản đặc cách quy định việc bảo vệ di tích thành nội Huế.

  • PHÙNG PHUCách đây vừa tròn 10 năm, ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với Huế và với cả nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới với dòng chữ “Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị nổi bật toàn cầu của một tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại”. Lịch sử vùng đất Phú Xuân- Huế với Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam mở ra một trang mới, giang rộng vòng tay đón bè bạn trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và truyền đạt kinh nghiệm trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSau Hiệp định Paris năm 1973, Thành uỷ Huế chủ trương phải xây dựng thêm các tổ chức cách mạng biến tướng để tập hợp lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên ở nội thành; tạo cho được những hoạt động công khai, hợp pháp nhằm thu hút quần chúng ở vùng địch tạm chiếm hướng đến mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi dân sinh, dân chủ, tiến tới đòi thi hành Hiệp định Paris.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCCách đây gần tròn 50 năm, từ Đại hội Anh hùng Chiến sĩ Thi đua lần thứ 3 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chiến dịch “Vì miền Nam ruột thịt”. Thực hiện chủ trương nầy, năm 1957 Bộ Văn hoá và Thư viện Quốc gia Việt Nam đã chính thức chỉ đạo 26 thư viện các tỉnh và thành phố ở miền Bắc xây dựng trong lòng mỗi thư viện một “Thư viện Kết nghĩa” vì miền Nam ruột thịt theo quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh, thành Bắc-Nam.

  • PHAN THANH HẢISông Hương là báu vật mà trời đất đã ban tặng cho Huế. Đã tự bao giờ, sông Hương đã được xem là dòng sông của thi ca, nhạc họa, của kiến trúc, nghệ thuật xứ Huế. Đã có nhà văn từng thốt lên: “Nếu một ngày nào đó sông Hương đột nhiên biến mất, thì Huế có còn là Huế nữa không?!”...

  • BỬU ÝMột đất nước có lịch sử lâu đời hẳn nhiên thừa hưởng di sản phong phú và đủ loại.Trước hết, vấn đề di sản không nhất thiết đi đôi với Festival. Di sản có thể nằm  một cõi, mà Festival lại nằm một nơi. Cũng có thể phát huy riêng rẽ, phục vụ quần chúng khác nhau, nhưng cùng chung một trục văn hoá để cùng được bảo tồn và phát huy. Nhưng nếu di sản sánh đôi với Festival thì đó là một cuộc nên duyên như được dành sẵn.