DƯƠNG PHƯỚC THU
Tháng 5 năm 2020, tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định lấy tên Nhà báo - Nhà lý luận báo chí cách mạng Hải Triều Nguyễn Khoa Văn để đặt tên cho Giải Báo chí của tỉnh. Mùa giải năm 2021 là năm thứ hai thực hiện quyết định này. Để bạn đọc có điều kiện hiểu sâu thêm về cuộc đời hoạt động báo chí và cách mạng của Hải Triều, nhân kỷ niệm 96 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2021), Sông Hương trân trọng giới thiệu bài viết về Nhà báo Hải Triều Nguyễn Khoa Văn.
Trao Giải Báo chí Hải Triều lần thứ I
Hải Triều, tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh ngày 1/10/1908 (theo gia phả họ Nguyễn Khoa thì ông sinh ngày 1 tháng 6 năm Bính Ngọ, nhằm ngày 21/7/1906) tại làng An Cựu, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên trong một gia đình trí thức. Hải Triều là hậu duệ của Tham tri Chánh đoán sự Nguyễn Khoa Chiêm, Nội tán Nguyễn Khoa Đăng, vốn gốc người Trạm Bạc, trấn Hải Dương. Ông nội Nguyễn Khoa Văn từng làm quan đến chức Bố chánh tỉnh Thanh Hóa, theo phong trào Cần Vương, treo ấn từ quan về nhà, có lúc bị bắt vì chống Pháp, rồi xuất gia tu Phật, lập ra chùa Ba La Mật ở làng Tây Thượng, huyện Phú Vang. Thân sinh Nguyễn Khoa Văn là một nhà nho có tinh thần yêu nước, từng được bầu vào Viện Dân biểu Trung Kỳ giai đoạn cụ Huỳnh Thúc Kháng làm Viện trưởng. Đây là một liên danh tiến bộ lần đầu tiên được bầu vào Viện Dân biểu. Sau đó, vì sự o ép của thực dân Pháp, cụ Huỳnh và một số dân biểu đã từ chức. Mẹ Nguyễn Khoa Văn là bà Công Nữ Đồng Canh, hiệu Đạm Phương nữ sử, một người con của hoàng tộc nhà Nguyễn có tinh thần yêu nước, tiến bộ, là tác giả của nhiều cuốn sách và bài báo bênh vực cho quyền lợi phụ nữ và nhi đồng lúc bấy giờ. Nguyễn Khoa Văn còn có một người anh là Nguyễn Khoa Tú làm thầy dạy học vì có chân trong “Hội Cứu tế đỏ” bị Pháp bắt và đánh chết năm 1931 tại Sài Gòn và một người em trai là Nguyễn Khoa Châu (tức Hải Châu) hy sinh ở Hà Tĩnh trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Hồi còn nhỏ Nguyễn Khoa Văn đã tỏ ra là một người học trò thống minh lanh lợi. Năm 1923, Nguyễn Khoa Văn vào học ở Trường Quốc Học Huế. Năm 1925 một biến cố trong lịch sử cách mạng nước ta đã ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời Nguyễn Khoa Văn: Cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt đưa về nước. Phong trào đòi thả cụ Phan Bội Châu sôi nổi khắp nước ta. Nguyễn Khoa Văn đã tham gia phong trào đó rất hăng hái bằng cách vận động học sinh Trường Quốc Học Huế đánh điện cho Toàn quyền Va-ren (Varenne) đòi thả cụ Phan Bội Châu. Thời gian này ông thường đến nhà cụ Phan, đang bị Pháp giam lỏng trên dốc Bến Ngự, để nghe cụ diễn thuyết. Tiếp đó cụ Phan Châu Trinh mất, Nguyễn Khoa Văn vận động học sinh tham gia phong trào truy điệu cụ Phan Châu Trinh. Năm 1927, phong trào bãi khóa sôi nổi trong các trường ở Huế. Ông là một trong những người tổ chức và lãnh đạo phong trào đó. Sau cuộc bãi khóa này Nguyễn Khoa Văn, Nguyễn Chí Diểu… bị đuổi khỏi trường. Cũng trong năm đó, ông được thầy giáo là cụ Võ Liêm Sơn giới thiệu vào Đảng Tân Việt và trở thành một cán bộ cấp tỉnh của đảng này. Năm 1928, ông vào Sài Gòn để hoạt động cho Tân Việt, được giao phụ trách các lớp huấn luyện mở cho anh em công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Ở đây ông có cơ hội được đọc nhiều sách của Mác, Ăng-ghen, Lênin. Ông bắt đầu dịch một phần cuốn Tư bản của Mác và viết một số bài nói về chủ nghĩa tư bản trên báo Kỳ Lân và Cờ Đỏ với bút danh Xích Nam Tử (Chàng trai đỏ).
![]() |
Nhà báo Hải Triều và văn nghệ sỹ Khu IV trong kháng chiến chống thực dân Pháp (nhà báo Hải Triều ngồi đầu tiên, bên phải) |
Năm 1929, Đảng Tân Việt bị vỡ. Một số người bị bắt, một số người chạy sang Trung Quốc, số còn lại (trong đó có Nguyễn Đình Kiên, Nguyễn Khoa Văn, Ngô Đức Đệ, Lê Tiềm…) họp hội nghị và quyết định cải tổ Tân Việt thành cộng sản. Cuộc hội nghị này đã cử Nguyễn Khoa Văn cùng với Trần Hữu Chương đi dự hội nghị toàn quốc của Đảng Tân Việt, họp trên một con thuyền ở bến Đò Trai, Hà Tĩnh, đã quyết định cải tổ Đảng Tân Việt thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Vì tổ chức không chu đáo cho nên hội nghị bị lộ, Nguyễn Khoa Văn và các đại biểu đều bị bắt. Nhưng vì không đủ chứng cớ để buộc tội, bọn Pháp phải thả các đại biểu ra.
Tháng 6/1930, Nguyễn Khoa Văn được gặp đồng chí Nguyễn Phong Sắc ở Huế. Đồng chí Nguyễn Phong Sắc lúc này là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ. Thay mặt Đảng, đồng chí Nguyễn Phong Sắc công nhận Nguyễn Khoa Văn là đảng viên chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cử Nguyễn Khoa Văn tham gia Tỉnh ủy Thừa Thiên.
Tháng 8/1930, Nguyễn Khoa Văn lại được Đảng điều vào Sài Gòn, tham gia Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, làm việc trong Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng và thường viết bài cho báo. Nguyễn Khoa Văn đã từng tham gia Ban Tổ chức các cuộc biểu tình ở đường Ha-mơ-lanh (Hamelin) và đường Véc-đoong (Verdun) chống khủng bố trắng và ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh. Ngày 3/1/1931, Nguyễn Khoa Văn bị bắt tại Sài Gòn giam ở trại Ca-ti-nan (Catinat), sau đó chúng chuyển ông ra Huế. Ngày 3/6/1931, Nguyễn Khoa Văn bị tòa Nam án Thừa Thiên kết án 9 năm khổ sai và 8 năm quản thúc. Tuy vậy, ông không phải ở hết thời hạn tù. Tháng 7/1932, anh được trả lại tự do.
Từ đây, Nguyễn Khoa Văn bước vào hoạt động sôi nổi trên báo chí công khai trong các lĩnh vực tư tưởng, chính trị, văn hóa - nghệ thuật một cách khéo léo. Hai chữ Hải Triều (Sóng biển) ông ký dưới các bài báo được nhiều người biết đến. Những bài báo nổi tiếng nhất làm cho nhiều người chú ý đến Hải Triều là các bài tranh luận với Phan Khôi về vấn đề “Duy tâm hay duy vật”, các bài tranh luận với Thiếu Sơn, Hoài Thanh… về vấn đề “Nghệ thuật vị nhân sinh hay nghệ thuật vị nghệ thuật”. Năm 1933, được sự giúp đỡ tài chính của người chị ruột, Hải Triều thuê được một ngôi nhà ở đường Trần Hưng Đạo gần cầu Trường Tiền để lập một hiệu sách lấy tên Hương Giang thư quán, làm nơi tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin thông qua sách báo tiến bộ - và đây cũng là địa chỉ bí mật của Tỉnh ủy Thừa Thiên và Xứ ủy Trung Kỳ.
Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Trung Kỳ, Hải Triều hoạt động công khai cho Đảng và đã có những thành tích về văn hóa và lý luận. Hải Triều đã tham gia tích cực các cuộc vận động Đại hội Đông Dương, đón tiếp Gô-đa, tổ chức Hội báo chí Trung Kỳ v.v. Năm 1937, Hải Triều làm chủ bút báo Nhành Lúa và tiếp tục làm cộng tác viên của các tờ báo Tiếng Dân, Ánh Sáng, Dân, Đời Mới, Kiến Văn, Tiếng Vang, Hồn Trẻ, Tin Tức, Tin Mới v.v, là các tờ báo cộng sản và cảm tình cộng sản hồi bấy giờ. Cũng năm 1937, Hải Triều đã viết và xuất bản các sách như: Trả lời cho André Gide, Văn sĩ và xã hội. Năm 1938, Hải Triều cho ra cuốn Chủ nghĩa Mác phổ thông…
Bọn thống trị Pháp cho rằng những hoạt động của Hải Triều là nguy hiểm đối với nền an ninh của chúng. Vì thế chúng theo dõi những hoạt động của Hải Triều.
Cuối năm 1939, Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra. Giặc Pháp thẳng tay khủng bố các cán bộ của Đảng. Tháng 8/1940, Hải Triều bị chúng bắt, đưa đi an trí tại huyện Phong Điền, cách Huế chừng 40km. Hải Triều bị an trí ở đây hơn 4 năm và đến tháng 3/1945, sau cuộc Nhật đảo chính hất cẳng Pháp, Hải Triều mới trở về nhà.
Hải Triều đã tham gia cuộc khởi nghĩa tháng 8/1945 ở Huế. Khi bắt đầu khởi nghĩa ông đã cùng một số đồng chí treo lá cờ đỏ sao vàng ở ngay cầu Trường Tiền. Sau Cách mạng Tháng Tám ông ra Hà Nội nhận công tác ở Bộ Thông tin Tuyên truyền; được ít lâu lại trở về Huế đảm nhận nhiệm vụ mới.
Ngày 24/2/1946, tại cuộc bầu cử đầu tiên của Hội đồng Nhân dân các cấp, nhà báo Hải Triều đắc cử Đại biểu Hội đồng Nhân dân thành phố Huế - Lúc này thành phố Huế trực thuộc Trung Bộ.
![]() |
Các tác phẩm của nhà báo Hải Triều |
Ngoài vai trò là một nhà văn, nhà lý luận, nhà báo cách mạng, Hải Triều còn Phụ trách công tác Tuyên huấn của Tỉnh ủy Thừa Thiên từ 1933 - 1935, Chủ tịch Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên (11/1945 - 1946); Giám đốc Sở Thông tin Tuyên truyền Trung Bộ (11/1945 - đầu năm 1946), sau chuyển ra Nghệ An, ông làm Giám đốc Khu Tuyên truyền và Văn nghệ Liên khu 4; Ủy viên Ủy ban Liên Việt Liên khu 4, Chi hội trưởng Chi hội Mác Liên khu 4, Tổng Thư ký Đoàn Khoa học Kỹ thuật Liên khu 4, Thường vụ Chi hội Văn nghệ Liên khu 4, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Những người làm báo Việt Nam. Ngoài các chức vụ trên, năm 1948, Hải Triều còn làm Chủ bút (như Tổng Biên tập ngày nay) tờ Thi đua Ái quốc của Liên Khu ủy khu 4, cũng là tờ báo đầu tiên của Ngành thi đua Việt Nam. Năm 1949, ông làm Chủ nhiệm tờ tạp chí lý luận Tìm hiểu, cơ quan của Chi hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Liên khu IV. Với những cương vị công tác trên, Hải Triều đã có những cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Khi viết về các bài báo của Hải Triều, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản Hồng Chương, một người dành nhiều tâm huyết nghiên cứu về Hải Triều - Nam Xích Tử - Nguyễn Khoa Văn đã nhận xét: “Hải Triều đã giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác-Lênin tấn công vào tư tưởng của giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản. Hải Triều đã lợi dụng báo chí hợp pháp dưới chế độ thực dân phong kiến để tuyên truyền cho những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về triết học và về văn học nghệ thuật”1.
Đánh giá về Hải Triều Nguyễn Khoa Văn, trong bài “Nhớ Hải Triều”, nhà sử học Trần Huy Liệu viết: “Hải Triều đã cống hiến nhiều cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin cho cách mạng Việt Nam”2.
Nguyên Tổng Bí thư Trường Chinh nhận xét: “Đồng chí Hải Triều đã làm cho chủ nghĩa duy vật thắng chủ nghĩa duy tâm, quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh đánh bại quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật”3.
Đánh giá về cuộc tranh luận “Duy vật hay duy tâm” năm 1933 - 1934 và cuộc tranh luận “Nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “Nghệ thuật vị nhân sinh” năm 1935 - 1939 mà Hải Triều tham gia và giành thắng lợi “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” viết: “Những cuộc đấu tranh nói trên chỉ thu hẹp trong phạm vi báo chí hợp pháp, nhưng đã có tiếng vang lớn trong tầng lớp học sinh, thanh niên, trí thức tiểu tư sản ở thành thị và một phần nào trong nhân dân ta.
Tất cả những hoạt động đó đã góp phần vào cuộc tổ chức lại lực lượng cách mạng, gây ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng và chuẩn bị đưa phong trào tiến lên bước mới”4…
Trước ngày ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ một thời gian ngắn, Hải Triều có chuyến công tác lên Việt Bắc, khi trở về đơn vị (lúc này đóng ở Thanh Hóa) thì ông bị ốm nặng. Sau một thời gian điều trị, do bệnh hiểm nghèo, ông đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 13 giờ ngày 6/8/1954, tại Bệnh viện Hà Lũng, tỉnh Thanh Hóa.
Trước lúc về với “thế giới người hiền”, Hải Triều đã gượng viết một bức thư cho nhà thơ Tố Hữu, một chúc thư gửi các đồng chí Văn nghệ và cho riêng mình mấy dòng tỏ lòng tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Ông viết:
“Anh Tố Hữu thân mến!
Tôi về đến Khu 4 thì đau nặng và hôm nay viết chúc thư cho anh đây.
Công tác tuyên truyền trong thời gian này quan trọng quá. Tôi chúc anh thắng lợi. Anh nói với anh Trường Chinh tôi chúc mạnh giỏi và chúc Trung ương Đảng ta thắng lợi trong công tác cách mạng. Tôi còn một hơi thở nhẹ viết cho anh đây. Vấn đề văn nghệ và văn hóa cần tiến mạnh hơn quân thù xa.
Hồ Chủ tịch muôn năm. Trước khi chết nhớ Bác quá…”.
Với các văn nghệ sĩ, ông viết:
“Các đồng chí văn nghệ. Đời tôi chiến đấu cho nghệ thuật và văn chương cách mạng. Các đồng chí cố gắng lên. Chúc tất cả mạnh giỏi và hôn tất cả”.
Ký tên
HẢI TRIỀU
Và cho riêng mình:
“Đời tôi không thắc mắc với đời
Đấu tranh kịch liệt chống đế quốc đi.
Còn đế quốc là còn chiến tranh.
Một công tác kiến thiết cũng là một phát súng vào đầu giặc Mỹ.
Hòa bình muôn năm.
Cách mạng thành công”…
Hải Triều là một trong những chiến sĩ tiêu biểu đầu tiên của nền văn hóa mới Việt Nam do Đảng ta xây dựng. Ông đã có những đóng góp xứng đáng vào nền văn hóa mới đó. Hải Triều là một trong những người đầu tiên tuyên truyền chủ nghĩa Mác, tuyên truyền quan điểm của Đảng ta trên báo chí hợp pháp ở nước ta dưới thời thuộc Pháp. Và là một trong những đảng viên thế hệ đầu tiên của Đảng bộ Thừa Thiên Huế và Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh năm 1930 - là nhà văn, nhà báo, nhà lý luận tiên phong trong nền báo chí cách mạng Việt Nam. Hải Triều đã để lại gần 100 tác phẩm (triết học, văn học, báo chí…) đến nay đọc lại vẫn còn cảm nhận tính thời sự của nó.
Hải Triều Nguyễn Khoa Văn đã được Đảng, Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt I (1996). Tên thật và bút danh của ông đã được đặt tên đường ở một số thành phố như Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Đông Hà, Huế, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế…
Việc lấy tên Nhà báo Hải triều - Một nhà báo cách mạng xuất sắc đại diện cho các thế hệ làm báo cách mạng ở Thừa Thiên Huế đặt tên cho Giải báo chí của tỉnh cũng là nhằm tôn vinh, đề cao giá trị nhân văn, sự cống hiến của đội ngũ báo chí cách mạng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, sự động viên khích lệ các thế hệ nhà báo hôm nay tiếp bước cha anh dấn thân trên con đường đấu tranh xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển quê hương đất nước bằng chính phẩm chất, khí tiết của người làm báo cách mạng.
CÁC NHÀ SÁCH, NHÀ XUẤT BẢN, NHÀ IN, BÁO CHÍ ĐÃ IN TÁC PHẨM CỦA HẢI TRIỀU NGUYỄN KHOA VĂN
Các báo và tạp chí, ấn phẩm định kỳ5
Báo Kỳ Lân (9/1928 - 5/1929).
Báo Tiếng Dân (3/1928 - 4/1936).
Báo Đông Phương (7/1933 - 11/1933).
Báo Phụ Nữ Tân Văn (1934).
Báo Công Luận (1935).
Báo Đời Mới (1935).
Báo Ánh Sáng (1935).
Báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy (1935).
Báo Tin Văn (1935).
Báo Trung Kỳ (1935).
Báo Tiến Bộ (1936).
Báo Hồ Trẻ, tập mới (1936).
Báo Mai (1936).
Báo Nhành Lúa (1937).
Báo Kinh Tế Tân Văn (1937).
Báo Sông Hương Tục Bản (1937).
Báo Dân Tiến (10/1938).
Tạp chí Tao Đàn (3/1939).
Tạp chí Tiên Phong (1945).
Tạp chí Đại Chúng (1946).
Tạp chí Ánh Sáng (5 và 11/1946).
Báo Sự Thật (5/1948).
Tạp chí Thi Đua Ái Quốc (1948).
Tạp chí Tìm Hiểu (3 và 5/1949 - 12/1950).
Báo Thép Mới (10/1949 và 7/1950)…
Các nhà sách, nhà xuất bản, nhà in
1. Tân Thanh niên tòng thơ, 1929.
2. Hương Giang thư quán, Huế, 1935, 1937.
3. Thư xã Tư tưởng mới, Huế, 1938.
4. Impr. Trung Bắc tân văn, 1938.
5. Impr. Lê Văn Tân, 1945.
6. Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam, 1945.
7. Nhà xuất bản Sự thật, 1946.
8. Liên hiệp nghiệp đoàn Nam Bộ, 1947.
9. Ty Thông tin Thái Nguyên, 1948.
10. Ban ấn loát Sở Thông tin Liên khu 4, 1949.
11. Báo Dân chủ mới, 1949.
12. Nhà xuất bản Văn học, 1965, 1996.
13. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
14. Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1993.
15. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014.
D.P.T
(SHSDB41/06-2021)
-----------------------
Bài viết tham khảo nguồn từ “Hải Triều toàn tập” và các công trình sách, báo đã xuất bản ở Việt Nam liên quan đến Hải Triều.
1. Hồng Chương, Mấy vấn đề lý luận và phê bình văn nghệ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1965, tr.214.
2. Trần Huy Liệu, Nhớ Hải Triều, trích từ sách Hải Triều - nhà lý luận tiên phong, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
3. Trường Chinh, Tuyển tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007, t.1, tr. 531.
4. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1981, tr. 201.
5. Dẫn lại từ Hải Triều toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.19 - 23, có bổ sung.
PHAN VĂN DẬT Tiếp theo kỳ trước (Sông Hương số 16-85)
LTS: Đoạn trích dưới đây nằm trong cuốn sách “Sauvenirs de Hue” (Hồi ký về Huế) do tác giả người Pháp Michel Đức Chaigneau viết vào năm 1867. Ông sinh ở Huế năm 1803 và mất ở Pháp năm 1894, trừ một thời gian trở về nước Pháp, ông đã sống ở Huế 21 năm.
HOÀNG TRUNG THÔNGAnh Hải Triều Nguyễn Khoa Văn sống một cuộc đời đấu tranh cho cách mạng, cho Đảng, cho nhân dân. Tôi được đọc anh từ những bài viết chống nghệ thuật vị nghệ thuật, chống duy tâm và cả lý thuyết cho rằng nước ta không có chế độ phong kiến.
LTS: Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của Đạm Phương nữ sử (1881- 2011), 85 năm ra đời Nữ Công Học hội Huế (15.6.1926 - 15.6.2011) do bà Đạm Phương sáng lập, ngày 18.6 tới đây, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên - Huế và Viện Văn học Việt Nam sẽ tổ chức Hội thảo khoa học về Đạm Phương nữ sử. Đây là cuộc hội thảo về Đạm Phương nữ sử lần đầu tiên, và được tổ chức ngay tại Huế, quê hương của Bà.
PHAN VĂN DẬT Một ngày dựa mạn thuyền rồng Cũng bằng muôn kiếp ở trong thuyền chài.
NGUYỄN CƯƠNG Trong giới tu hành và phật tử ở miền Nam từ trước đến nay không mấy ai không biết đến thiện danh và công lao đóng góp cho đạo, cho đời của Sư Bà Thích Nữ Diệu Không.
NGUYỄN PHƯỚC BẢO QUYẾNXưa nay, trong văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng, Huế được nói đến rất nhiều, nhất là với những người con của Huế trong đó có những hoàng tử của triều Nguyễn đặc biệt là các hoàng tử của triều vua Minh Mạng.
L.T.S: Ông Nguyễn Hải Âu quê ở Hà Nam Ninh. Năm 1941 ông đi lính bị đưa sang Pháp rồi sang Alger. Ở Pháp và Alger ông tham gia lãnh đạo phong trào phản chiến nên bị đưa sang Calcutta, không cho hồi hương.
TRẦN THỊ NHƯ MÂNTrong số những phụ nữ ở Huế mà tôi được gặp lúc thiếu thời, có một khuôn mặt tôi nhớ mãi, không những vì có nhiều quan hệ gần gũi với tôi, mà một lúc nào đó đã có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời tôi. Đó là bà Đạm Phương.
LÊ VĂN HIẾN(Trích hồi ký)
LND: Bửu Đình là một nhà văn có tinh thần yêu nước được các tầng lớp thanh niên thời kỳ trước ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam yêu mến. Vừa rồi, nhân đọc cuốn “Những bí mật trên Côn Đảo” của nhà văn Demario Giang Colotdo viết từ những năm 1935-1936 (xuất bản tại Paris năm 1956) - một cuốn sách ca ngợi khí tiết của những người tù cộng sản trên Côn Đảo, thấy có một chương (1) viết về Bửu Đình, tôi xin dịch để giới thiệu với bạn đọc Sông Hương. Đây là tư liệu đầu tiên giới thiệu Bửu Đình, rất mong bạn đọc và gia đình của nhà văn Bửu Đình cung cấp thêm tư liệu để chúng tôi có thể giới thiệu một cách đầy đủ về nhà văn của núi Ngự sông Hương này.
Vắng mặt Sông Hương suốt mấy trăng,Đuổi xong ma bệnh rước tin mừng…
NGUYỄN ĐẮC XUÂNDo Huế là Kinh đô của triều đại quân chủ ở Việt Nam, cho nên người phụ nữ Huế ngoài dân trăm họ thông thường như các địa phương khác còn có phụ nữ thuộc tầng lớp vương giả sống trong chốn Nội cung nhà Nguyễn như các bà mẹ vua, vợ vua, con gái vua, cháu vua và cung nhân.
TRẦN MINH TÍCHBên bờ phá Tam Giang mênh mông sóng nước, cách thành phố Huế khoảng chừng hai mươi cây số về phía đông nam có vùng đất bạt ngàn cát trắng, nơi đây trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược là cái nôi của cách mạng, hàng bao nhiêu hạt giống đỏ được ươm mầm để nhân rộng ra các vùng đất khác, tên gọi của xã vùng cát anh hùng đó là Phú Thạnh bây giờ là Phú Đa.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNThừa Thiên Huế tự hào có Phú Xuân là Kinh đô của nước Việt dưới thời Nguyễn Huệ Quang Trung (1788-1792). Và cũng chính nơi đây đã diễn ra cuộc trả thù nghiệt ngã của dòng họ Nguyễn Phúc dành cho họ Nguyễn Tây Sơn. Do đó những thông tin lịch sử về thời đại Quang Trung và Phong trào Tây Sơn ở Huế đã bị thủ tiêu và làm sai lệch đi khá nhiều.
LIỄU THƯỢNG VĂNQuả thực đã nổi lên sự phong phú đặc biệt khi đứng ở góc nhìn tập trung, tế nhị, để điểm lại một số ảnh hưởng lớn, khó phai nhòa của họ, những khuôn mặt Nữ lừng danh của vùng đất Thuận Hóa.
TRẦN XUÂN THẢOKỷ niệm năm sinh thứ 160 của Tôn Thất Thuyết (1839 - 1999)
BỬU ÝKhi nghe dóng lên câu hỏi: “Người Huế, anh là ai?” có lẽ cùng chẳng ai buồn giật mình hay ngạc nhiên làm gì. Bởi lẽ cái chân dung sẽ được phác hoạ ra chắc chẳng có gì độc đáo. Ai nấy đều đã biết rồi, đã gặp rồi, đã gặp khắp nơi là đằng khác. Dù sao, đây cũng thuộc loại hình ảnh cũ kỹ trong cuốn album gia đình mà anh chị em thường táy máy giở đi giở lại vậy.
N. I. NIKULIN*Khi có dịp đến thăm Huế, tôi đã lang thang rất lâu khắp Kinh đô, khắp các cung điện, đền miếu, lăng tẩm kỳ bí. Ở đây tôi được thưởng ngoạn một nền kiến trúc phức tạp, tinh tế, đẹp mê hồn, ngắm nhìn phong cảnh Huế tuyệt vời từ cửa Ngọ Môn. Tôi hít thở thật sâu bầu không khí kỳ lạ của cố đô được hòa quyện bởi hơi mát của biển và dòng sông Hương huyền diệu. Và lòng đầy xúc động tôi đứng trước ngai vàng triều Nguyễn, ngẫm xem những ai đã từng ngồi trên chiếc ngai vàng này, và đặc biệt tôi nghĩ về một người trong số họ, một con người rất đỗi tài năng và có một số phận không bình thường.
LÊ QUANG THÁIXem chừng cái cổng gỗ vừa bình dị vừa cổ kính ở đường Nguyễn Công Trứ có tiền thân là đường Chợ Cống, trong khoảng hơn 100 năm trở lại, lần lượt thay đổi địa chỉ theo một loạt mã số 21, 27, 29, 31, 33, 47, 63... như đã nói lên tiếng lòng của dân gian trước tốc độ phát triển nhanh chóng của đô thị Huế.