Nguyệt Đình - chàng thi sĩ tương tư dòng sông

08:59 17/02/2009
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)


Huế, nhắc tới Nguyệt Đình, là người ta nói tới Nguyệt Đình - Nhà thư pháp. Ông đã từng viết thư pháp cả một cuốn Truyện Kiều của Nguyễn Du, cỡ sách 1m2 x 1m6. Người ta khen thư pháp của ông bay bướm, có hồn. Đồng thời nói tới tên Nguyệt Đình, cũng là nói tới tên một nhà thơ lớp trước - Một nhà thơ lãng tử, phiêu diêu như mây trời lãng đãng.
Có khi ông lãng đãng theo một cánh bướm bay vô tình:
Và bướm trắng chập chờn đôi cánh mỏng
Để phấn vàng gieo rắc, vướng cành xoan
Có khi ông tha thẩn trong một vườn chùa:
Một mảnh vườn tiên giữa cõi trần
Ngàn hồng phô sắc
Nắng vàng sân
(Vườn chùa)
Nguyệt Đình cảm nhận từng bước đi đầy chất lãng tử của mình. Không phải ai khác, chính nhà thơ đã tự vịnh: Anh lãng đãng như mây trời lãng đãng. Còn người đọc thì cảm nhận nhà thơ đang đi tìm tứ thơ cho mình trên đất thần kinh, đến nỗi không còn nhớ thời gian:
Du ngâm tóc nhuốm màu trăng xế
Vỗ túi chừng quên chuyện tháng ngày
(Trăng lên Từ Hiếu)
Nhất là từ khi tiếng súng chiến tranh trên đất Huế đã im bặt, nhường chỗ cho cuộc sống bình yên, để mọi người tìm cuộc sống đích thực của chính mình, thì thơ Nguyệt Đình cũng đã reo lên:
Kiếm cung đã thế thì thôi
Còn thơ còn nhạc vỗ đùi nghêu ngao
(Lênh đênh)

Nguyệt Đình thuộc lớp nhà thơ có chiều dày sáng tác cho nên trong tập thơ, nhiều bài, nhiều câu phảng phất tâm trạng hoài cổ. Chất hoài cổ không ồn ào như loại thơ quảng trường, mà lắng đọng từng chữ một.
Với bầu rượu túi thơ bất kể tháng ngày, Nguyệt Đình đã “bắt được” tứ thơ hay:
Khoảnh khắc đất trời lộng gió mây
Thiền sư áo bạc dính sao gầy
Hình ảnh “sao gầy” bám đầy trên áo đã bạc màu của Thiền sư thật là đẹp và thật là thơ. Không biết ở câu thơ này Nguyệt Đình tả Thiền sư hay ông tả ngay chính bước đường lãng tử của mình. Không dễ gì thoáng qua mà gặp được ánh sao gầy trên áo Thiền sư giữa đất trời rộng mở như vậy.
Theo tôi, đây là câu thơ hay nhất trong tập. Nó vừa thực, vừa ảo, rất đúng và hợp với chất lãng đãng của Nguyệt Đình.

Song khi gấp tập thơ “Huế trong thơ Nguyệt Đình” lại, tôi man mác  cảm giác rằng nhà thơ đất thần kinh Nguyệt Đình đang tương tư dòng sông Hương. Mỗi câu ông viết, hình như ông đang ngồi trước người đẹp ấy để chiêm ngưỡng từng nét thanh tú của nàng.
“Đêm ngã ba Tuần” ta thấy nhà thơ đang lãng đãng thả thuyền trên sông dưới một trời đầy sao:
Chòng chành thuyền nhẹ mái chèo lơi
Bãng lãng sao dăng rợp một trời
Tác giả buông “lơi” mái chèo, quên cả việc chèo thuyền, thả hồn mình vào ánh trăng. Phải ở Huế mới hiểu chữ bãng lãng, chữ nghĩa chông chênh đến thế, nhưng thực ra nó lại là nghĩa đen đấy. Ngã ba Tuần, nơi dòng Tả Trạch và Hữu Trạch giao hòa vào nhau, tan vào nhau còn có tên khác: Ngã ba Bãng lãng.

Thơ Nguyệt Đình nói tới sông Hương là nói ngay tới con thuyền. Hình như tác giả đang mượn con thuyền để nói dòng sông mà mình tương tư. Phải tương tư, lãng đãng lắm mới có được cảnh sắc nên thơ nhường này:
Thuyền câu một lá thả lênh đênh
Con nước triều dâng vỗ bập bềnh
(Vào thu)
Nguyệt Đình chú ý tới từng con chữ một: Thuyền đã một “lá”, lại “thả” nên nó “lênh đênh” là phải. Nhờ có “triều dâng”, tạo nên con sóng ngược dòng, nên mới “vỗ bập bềnh” được. Công nhận nhà thơ quan sát rất kỹ. Một câu thơ thôi mà thật kỳ công. Tác giả vừa là người cầm chèo, là người buông câu, đồng thời lại là một nhà thơ, cho nên cảm xúc ào đến, bộn bề. Cảm nhận được cả công việc của mình, đồng thời cảm nhận được cả trời đất.
Bài “Thuyền trăng” là một bài đầy dấu ấn cảm xúc:
Hơi thu và cả hơi trăng nước
Loang nhẹ một trời nhuốm áo em
Câu thơ không chỉ là thơ mà còn là một bức họa. Chất bay bướm trong chữ thư pháp của Nguyệt Đình đã hóa thân vào đây, để vẽ một bức tranh thuỷ mạc mờ mờ “hơi thu”, huyền ảo “hơi trăng” và phảng phất hương lành lạnh của đất trời mùa thu thấm vào áo cô thiếu nữ, “loang nhẹ một trời”. Ai có ngón tay thật nhạy cảm thử đụng vào tà áo thấm hơi thu, hơi trăng của Nguyệt Đình xem cảm giác của mình sẽ thế nào.
Thơ Nguyệt Đình đã đưa người đọc vào một thế giới ảo là như vậy.

Chưa hết, cả không gian trăng sao mây nước của sông Hương, không biết có thật không, nhưng Nguyệt Đình lại còn nghe thấy cả tiếng sáo:
Văng vẳng bờ xa tiếng sáo ai
Mà như tiếng trúc tự Thiên Thai
Tôi dừng lại ở câu thơ này. Tự hỏi: thực ra có tiếng sáo này hay không? Tác giả bảo nó là “tự Thiên Thai” đó, hợp cảnh hợp tình thì có nhưng hơi gò ép, làm tứ thơ chểnh mảng đi. Tuy nhiên phải nói rằng Nguyệt Đình yêu dòng Hương Giang lắm, nên nhìn vào đâu, nghe đâu đâu cũng thấy chan chứa tình.
Đến nỗi, không phải ai khác, chính Nguyệt Đình đã thấy cả Kinh đô nơi sóng nước. Nguyệt Đình nhìn thấy đền, đài, lăng, tẩm ngay trong dòng sông của mình:
Hương Giang thanh thản soi đài các
Ngự lĩnh thung dung ngắm điện đình
Lãng đãng sương thu hồn mặc khách
Nhạt nhoà thuỷ mặc vẽ Xuân Kinh
(Vào thu)
Khi Nguyệt Đình treo vầng trăng trên sông Hương, ta lại gặp chính nơi đây một dòng sông thơ khác, nó man mác rất đa tình:
Hồn ta lành lạnh trong trăng đó
Ngửa mặt bên trời chiếc nguyệt treo
(Thuyền trăng)
Ai đã từng trên thuyền trong đêm trăng ra giữa dòng Hương Giang, buông chèo cho thuyền tự trôi và đêm ca Huế trên sông bắt đầu với tiếng nhị tiếng thập lục và tiếng hát ca Huế, mới cảm nhận hết những câu thơ lai láng này:
Chầm chậm em ơi chớ vội vàng
Chờ thêm chốc nữa nguyệt đầy khoang
Rồi mau em nắn cung thương lại
Dạo khúc Thường Nga kẻo nguyệt tàn

Thơ Nguyệt Đình có một bài thơ rất buồn. Cũng lại là thơ về sông Hương, về một bến sông cũ không còn nữa. Một nỗi buồn thật thấm thía:
Bến cũ ngày xưa bặt điệu hò
Chiều buông gờn gợn, sóng quanh co
Chừng nghe sương khói luồn lau lách
Như thoảng bờ xa tiếng gọi đò
(Bến xưa)
Có một nhà thơ Huế yêu sông Hương đến thế là cùng.
Thơ Nguyệt Đình có một giọng riêng, hơi xưa một chút, chẳng thể đòi hơn. Ông chỉ giận mình tình yêu mênh mông thế sao chẳng kéo lại được thời gian:
Mải mê chèo chống vui sông nước
Ngoảnh lại ai ngờ tóc trổ bông

Hoá ra Nguyệt Đình cũng là nhà thơ lãng đãng mà đầy tâm trạng. Không tâm trạng không thể yêu dòng sông mà mình tương tư đến thế. Vì vậy mà Nguyệt Đình đã cho đời những câu thơ thật đắt giá về sông Hương. Quả thật không tâm trạng, không đau đáu tương tư không thể có những vần thơ cất cánh như thế. Nếu không, nhà thơ Tường An sao lại thấy nữ sĩ Kiều Anh ngậm ngùi khi đọc thơ Nguyệt Đình:
Đọc thơ Huế của Nguyệt Đình
Ngậm ngùi nhớ Huế một mình lệ rơi.
N.Q.H

(nguồn: TCSH số 193 - 03 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINH

    Trong các tập thơ xuất bản ở Huế trong mấy năm lại đây, "Ngọn gió đi tìm" là một trong số rất ít tập được đọc giả mến mộ, có thể nói được rằng: đó là một tập thơ hay! Tập thơ tạo được sự cuốn hút, sự nhập cuộc của người đọc.

  • “Với Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi đã trình bày lịch sử không phải lịch sử chính trị, mà là lịch sử của con người”, GS Phan Huy Lê nói về cuốn sử quý vừa ra mắt tại VN sau nhiều năm ở nước ngoài.

  • Sự nát tan của các giá trị tinh thần trong đời sống hiện đại được Trần Nhã Thụy đưa vào tiểu thuyết mới bằng văn phong hài hước, chua chát.

  • Cuốn sách "Trăm năm trong cõi" của giáo sư Phong Lê viết về 23 tác giả khai mở và hoàn thiện diện mạo văn học hiện đại Việt Nam.

  • Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng  bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.

  • Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.

  • LÊ VIỄN PHƯƠNG

    (Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)

  • Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.

  • 17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của  Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.

  • Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.

  • Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.

  • NGỌC THANH 

    Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.

  • “Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.

  • ĐẶNG HUY GIANG

    Thói quen, nói cho cùng, là sản phẩm của quá khứ, là những gì lặp đi lặp lại, không dễ từ bỏ.

  • Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...

  • BÍCH THU
    (Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)

    Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.

  • Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.

  • Tác giả Tử Đinh Hương thực hiện bộ sách "Biểu tượng" với mong muốn khám phá, lưu giữ và khuyến khích trẻ nhỏ quan tâm hơn đến thế giới xung quanh.