NGUYỄN THANH TÂM
Đến thời điểm hiện tại (3/2023), Nguyễn Việt Chiến đã xuất bản 8 tập thơ, 2 tập tiểu luận - phê bình và 1 tiểu thuyết.
Ảnh: tư liệu
Qua hơn 30 năm cầm bút, vừa là nhà thơ, nhà báo, lượng tác phẩm như vậy, theo tôi không nhiều. Thế nhưng, Nguyễn Việt Chiến lại là cái tên không thể không nhắc trong đời sống thơ ca Việt Nam đương đại. Điểm không thể không nhắc ấy (ngoài việc anh phổ biến mình quá rộng rãi) nằm ở tính chất đa dạng của thơ Nguyễn Việt Chiến. Bắt đầu từ Mưa lúc không giờ (1992), qua những Ngọn sóng thời gian (1998), Cỏ trên đất (2000), Những con ngựa đêm (2003), Trăng và thơ đọc chậm (2012), Hoa hồng không vỡ (2015), Tổ quốc nhìn từ biển (2015), Trường ca Biển (2015) đến Thơ và Trường ca (tuyển, 2023), người đọc có thể nhận ra, trong thế giới trữ tình của Nguyễn Việt Chiến, có sự đồng hiện của nhiều ngôi - vai trữ tình gắn với cái tôi đa diện: cái tôi luyến ái, cái tôi công dân, cái tôi trí thức - nghệ sĩ. Điểm này, xét rộng ra cũng chẳng phải là điều riêng khác của Nguyễn Việt Chiến. Cái khác là ở cấp độ - mức độ. Nguyễn Việt Chiến thể hiện những trạng thái tinh thần - mĩ cảm ấy khá mạnh mẽ, có hệ thống, tạo thành những dòng mạch rõ rệt. Dù trong tư cách nào, những cái tôi ấy đều tỏ bày một cách say sưa, dào dạt, tâm huyết, ẩn chứa nhiệt hứng của thi sĩ. Chính cấp độ và mức độ cùng khả năng vẫy gọi - giao cảm, hô ứng ấy đã đưa Nguyễn Việt Chiến vào vị trí là một trong những tên tuổi nổi bật của loại hình thơ giao cảm.
1. Thế nào là loại hình thơ giao cảm?
Giao cảm vốn là đặc tính trong hành trình của nghệ thuật. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh vào khía cạnh loại hình (typology), tôi chú trọng đến những điểm tương đồng mang tính quy luật, xuất hiện ở nhiều tác giả, tác phẩm, thậm chí là ở những giai đoạn thơ. Đó là loại hình thơ hướng đến việc phô bày cảm xúc, vẫy gọi sự đồng cảm từ phía người đọc như là ý hướng đầu tiên, chủ đạo (cảm trước -nghĩ sau). Nói đến loại hình thơ giao cảm cũng là nói đến sự phân loại tương đối (NTT nhấn mạnh) giữa nó với loại hình thơ khác như thơ triết luận (nghĩ trước -cảm sau). Sự chồng lấn của hai loại hình này là điều không tránh khỏi, nằm trong bản chất của việc tiếp nhận. Mặc dù vậy, ngay khi tiếp cận văn bản thơ, loại hình thơ giao cảm kích hoạt mạnh mẽ cảm xúc (trái tim) còn loại hình thơ triết luận lại đánh thức suy tư (trí não) người đọc. Như vậy, có thể cùng một điểm đến, nhưng hành trình của hai loại hình này là khác nhau. Chẳng hạn, khi Tố Hữu viết: Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi/ Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt/ Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát/ Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca (Ta đi tới), đó là những dòng thơ thể hiện niềm say mê với vẻ đẹp của quê hương đất nước, làm người đọc thêm yêu Tổ quốc mình. Khi Hoàng Nhuận Cầm viết: Em đã yêu anh, anh đã xa rồi/ Cây bàng hẹn hò chìa tay vẫy mãi/ Anh nhớ quá mà chỉ lo ngoảnh lại/ Không thấy trên sân trường chiếc lá buổi đầu tiên (Chiếc lá đầu tiên) người đọc chưa cần nghĩ nhiều mà chỉ thấy dâng lên trong lòng mình cảm xúc chia xa, tiếc nuối về những năm tháng thương yêu, tươi trẻ. Trong khi đó, đứng trước những dòng thơ của Thanh Thảo, suy tưởng chợt kéo đến, chất vấn chúng ta về thái độ, trách nhiệm làm người của mình: máu đỏ thật không ồn ào/ máu lặng lẽ ướt đầm ngực áo/ hạnh phúc nào cho tôi/ hạnh phúc nào cho anh/ hạnh phúc nào cho chúng ta/ hạnh phúc nào cho đất nước (Thử nói về hạnh phúc). Với thơ Trương Đăng Dung, phần trí não của người đọc sẽ phải làm việc cật lực để thông hiểu sau đó cảm xúc mới được định hình một cách rõ rệt: Một người nói: Hôm nay là thứ Bảy/ Đám đông nói: Ngày cuối năm/ Thời gian nói: Tôi luôn là hiện tại (Đối thoại). Nếu chẳng có ý niệm gì về triết học hiện sinh (phương Tây) và cảm quan “sống đời” (minh triết phương Đông, dân gian) e chừng sự đọc đã để rụng rơi nhiều ý nghĩa trong những dòng thơ ấy.
Nói đến loại hình thơ nghĩa là phải có các tiêu chí đặc trưng để cố kết nó trong một cấu trúc nhất định. Xếp chồng những tác phẩm thuộc loại hình thơ giao cảm, có thể thấy, cái lõi của nó là kiểu tư duy biểu cảm, phương thức nổi bật là sự lôi cuốn của vần - nhịp điệu và nhạc tính, phương tiện chủ đạo là ngôn từ, hình ảnh gợi cảm - trực quan.
Trở lên, cơ sở của việc định dạng một loại hình thơ chính là thực tiễn sáng tác, tiếp nhận của các tác giả - tác phẩm. Với loại hình thơ giao cảm, Nguyễn Việt Chiến là một trường hợp rất tiêu biểu (tiêu biểu cho đặc tính giao cảm sâu dày trong thơ trữ tình Việt Nam, từ truyền thống đến hiện tại). Tiểu luận này tập trung vào ba trọng điểm: kiểu tư duy thơ - phương thức nổi bật - phương tiện chủ đạo trong thơ Nguyễn Việt Chiến, nhằm hình dung rõ hơn về các giả thuyết nêu trên.
2. Kiểu tư duy biểu cảm trong thơ Nguyễn Việt Chiến
Thế giới nghệ thuật là kết quả của tư duy nghệ thuật. Như vậy, tư duy nghệ thuật là lĩnh vực động, có tính quá trình, được vận hành thông qua các thao tác tưởng tượng, liên tưởng, suy tưởng… cả trong ý thức và vô thức. Xem xét thơ Nguyễn Việt Chiến có thể nhận ra cảm xúc là yếu tố đầu tiên khơi mở ý tình, dẫn dắt tư duy, tạo lập thế giới nghệ thuật. Nói cách khác, những yêu - thương - nhớ - quên - vui - buồn - hờn - giận - oán - sầu - khinh - ghét - căm thù - phẫn nộ… là động cơ chính trên hành trình tư duy thơ. Tám tập thơ đã xuất bản của Nguyễn Việt Chiến, nếu có thể khoanh vùng một cách tương đối, đã định hình theo những mạch cảm xúc như thế, hình thành mảng thơ tình yêu, thơ trữ tình chính trị - công dân, thơ trí thức - nghệ sĩ… Trong thơ tình, cái tôi dâng đầy xúc cảm đã dựng nên không gian - thời gian của tình yêu, cùng tình nhân và các sắc thái của luyến ái: Ta xa miền thơ ấu/ Ta xa mùa yêu thương/ Ta qua miền tưởng tượng/ Ngỡ còn em… đâu còn (Mùa này sông cạn nước). Thơ ấu, yêu thương, em là những hội tụ làm nên “vùng nhiễu động” tâm tư của anh. Em của ngày xưa, em của hôm nay, anh của quá khứ, anh trong hiện tại, vùng trăng yên bình và vùng trời nhiễu động, cái dở dang đã phong nguyên trong hoài niệm, cái còn đắp đổi, lở bồi,… là những đối cực trong dòng mơ tưởng của Nguyễn Việt Chiến: Cô đơn xuống một đò đầy/ Tôi chờ em phía bên này mùa đông/ Cát còn bay trắng bến sông/ Người còn đi trắng mùa mong ước này/ Tôi cầm hạt cát trên tay/ Đêm không còn ấm như ngày có em (Cát đợi); ở bên kia thành phố có sương mù/ ai hát đấy: ta buồn như cỏ dại/ dậy thôi em, mùa thu không trở lại/ giấc mơ nào trên cỏ hãy còn xanh… (Mùa thu không trở lại). Người đọc chưa cần huy động trí lực, cứ để dòng cảm xúc lan thấm vào tâm can; đồng cảm với nỗi buồn, sự cô đơn, lạnh lẽo của cái tôi trữ tình trong thơ. Ở đây, ta cũng không gặp những “nút thắt”, những “vấp ngã” của tình huống ngôn ngữ buộc trí não phải làm việc. Sẽ không có sự chất vấn, truy tìm, hoài nghi, lưỡng lự cân nhắc đúng sai phải trái trong những ví dụ thơ như vậy. Chỉ có cảm xúc, vẫy gọi ngôn từ, hình ảnh, cố gắng chuyển tải tới người đọc trạng trái tình cảm của chủ thể một cách trọn vẹn nhất. Tư duy biểu cảm lấn át tư duy nghị luận - triết luận, dâng lên và bao phủ thành khí quyển của thơ Nguyễn Việt Chiến. Điều này sẽ thể hiện rõ hơn ở mảng thơ thế sự - “trữ tình công dân - trữ tình chính trị”: Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát/ Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời/ Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất/ Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi (Tổ quốc nhìn từ biển); Có nơi nào như Đất nước chúng ta/ viết bằng máu cả ngàn chương sử đỏ/ khi giặc đến vạn người con quyết tử/ cho một lần Tổ quốc được sinh ra (Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra)… Mạch nguồn cảm hứng sử thi vốn đã sôi trào mạnh mẽ trong truyền thống thơ cách mạng Việt Nam tiếp tục được Nguyễn Việt Chiến khai thác. Không thể nói là chúng ta không nghĩ, nhưng cái nghĩ ấy được thôi thúc từ trái tim đang rung lên trước lịch sử - vận mệnh -dáng hình đất nước. Người đọc có thể nghĩ gì/ nghĩ gì khác nữa, trong những bài thơ này của Nguyễn Việt Chiến? Sự đồng thuận là điều dễ nhận ra bởi cảm xúc tác động trực tiếp, mạnh mẽ vào tâm hồn ta. Tình yêu đất nước, lòng tự hào dân tộc cùng những lo âu trước bao hiểm họa đến từ nhiều phía đã hòa dòng máu của chúng ta làm một, cuộn sôi trong huyết quản, cuốn phăng đi những toan tính nghĩ suy, những đắn đo hơn thiệt, những thu vén riêng tư. Điều đó là kết quả của kiểu tư duy biểu cảm dựa trên mạch sử thi mà Nguyễn Việt Chiến đã luôn gìn giữ trong trái tim mình.
3. Vần - nhịp điệu và nhạc tính: chất men của cảm xúc
Kiểu tư duy biểu cảm sẽ chi phối toàn bộ quá trình tạo lập thế giới nghệ thuật. Ở phương thức biểu đạt chúng ta nhận ra sự ưu trội của vần - điệu và nhạc tính, như là chất men của cảm xúc. Trong cơ chế tâm lý thông thường, cảm xúc cần nhiều hơn sự liên minh từ vần - điệu và nhạc tính, bởi sự du dương, dào dạt, nhịp nhàng mà nó tạo nên. Nguyễn Việt Chiến không tránh khỏi cơ chế này, và thực tế, sẽ cần trưng dụng cơ chế này để tối ưu hóa hiệu quả biểu đạt.
Vần, xét trong cơ chế là sự lặp lại của một từ hay bộ phận, thành tố của từ theo một quy luật nhất định hướng tới việc tạo nên những cấu trúc cộng hưởng và vang vọng - vốn là dấu hiệu hình thức đặc trưng của thơ truyền thống. Nhờ có vần mà cảm xúc được dẫn dắt và lan tỏa: Tháng giêng mưa ngoài phố/ Mưa như là sương thôi/ Những bóng cây dáng khói/ Như mộng du bên trời (Mưa tháng giêng); Ta lặn xuống chiếc bình đêm day dứt/ Những thân hoa còn tươi vết cắt này/ Môi ta chạm vào ngực hoa đau nhức/ Một mùi hương dĩ vãng chẳng lưu đày (Ta nặn lại chiếc bình đêm tan vỡ); Đất quặn đỏ ngàn năm trận mạc/ Bao lớp người như sóng trùm lên/ Trên dải đất ba ngàn cây số biển/ Mong tháng ngày đất nước được bình yên (Tổ quốc bên bờ biển cả)… Nguyễn Việt Chiến tỏ ra là người làm chủ một cách rất linh hoạt yếu tố vần trong thơ mình. Đọc những bài thơ có vần của anh, ta thấy lưu loát, tự nhiên, với khí lực dày dặn. Khí lực ấy là kết quả của cảm xúc luôn dâng đầy trong thơ Nguyễn Việt Chiến. Đó chẳng phải là cơ sở để thi sĩ giao cảm cùng tha nhân hay sao?
Vần (và không chỉ vần) tạo nên nhịp điệu. Nhịp điệu là cấu trúc lớn hơn, hình thành bởi tất cả thành tố hữu hình và vô hình trong không gian thơ. Cái hữu hình (hiểu như là cái có thể quan sát bằng thị giác) là ngôn ngữ, hình thức văn bản. Cái vô hình là chất thơ, là điệu tâm hồn, hơi thở và sức sống tiềm tàng của chữ - nghĩa, hình tượng, cấu trúc… Trong loại hình thơ giao cảm, những yếu tố này vận hoạt theo biểu đồ cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Xem xét thơ Nguyễn Việt Chiến, ta thấy nhịp điệu khi miên man, khi dào dạt, khi cuộn trào, nhưng tính liên tục vẫn được duy trì bởi mạch cảm xúc: Chiều cuối năm sông vắng/ Gặp sông bỗng nhớ về/ Mùa cỏ may năm ấy/ Em xa rồi như quê (Làng bên kia Trung Hà); Chúng đừng mong thôn tính/ một dải biên cương này/ máu thiêng bao người lính/ vẫn sục sôi đâu đây/ Vị Xuyên ngày giỗ trận/ bao lớp người lên đây/ màu áo xanh lính trận/ điệp trùng dưới ngàn mây (Ngày giỗ trận). Trong cơ chế sáng tạo, việc giữ được tính liên tục của cảm xúc rất quan trọng, nó làm nên chỉnh thể thống nhất của ý tình trong thơ (có một thực tế, ở nhiều người khác, mạch cảm xúc bị ngắt quãng, hụt hơi, tán lạc, dẫn đến không duy trì được tính chỉnh thể vẹn nguyên. Nỗ lực khơi đào trở lại mạch cảm xúc này chỉ làm cho bài thơ hiện ra vẻ chắp vá đáng thương của nó). Có thể nói, với Nguyễn Việt Chiến, anh làm khá tốt điều này, cảm xúc trở thành “vốn tượng trưng” (Pierre Bourdieu) để thi sĩ giao cảm với người đọc. Phải mạnh mẽ, miên man, dào dạt và liên tục mới có thể lay động tâm hồn kẻ khác, đó là điều mà loại hình thơ giao cảm này hướng đến. Mạnh ở bình diện này, thế nên, ở những sáng tác giai đoạn sau, Nguyễn Việt Chiến chủ động thêm dấu chấm vào các câu - dòng thơ, điều chỉnh nhịp điệu, tạo thành thứ thơ “đọc chậm” như là một phương thức tiết chế tính liên tục của cảm xúc. Bản thân tôi chưa ghi nhận hiệu quả thẩm mĩ thực sự của lối thơ “đọc chậm” này.
Vần, nhịp điệu tạo nên nhạc tính. Nhạc tính là kết quả của việc tổ chức âm thanh, vần, nhịp điệu trong thời gian (Âm nhạc là loại hình nghệ thuật thời gian). Sự cộng hưởng của các thành tố trong một văn bản thơ mang lại tiết tấu - nhạc tính, biểu đạt điệu thức của tâm hồn thi sĩ. Cầm giữ và tổ chức nhạc tính trong thơ Nguyễn Việt Chiến vẫn là cảm xúc khi nó chủ động vẫy gọi các ký hiệu giàu tính nhạc. Đây là thế mạnh của loại hình thơ giao cảm (điều ta ít khi nhận ra một cách rõ rệt trong thơ triết luận): Phố trong mưa khuấy động màu sơn/ Giai điệu trắng cầm ca giữ nhịp/ Đây bè trầm giọng ngói xô nghiêng/ Cùng tiếng gió bè cao xoáy tít (Mưa phố vào tranh); Em có nghe trên cát/ Tiếng chim hồn nhiên bay/ Em có nghe dưới cát/ Buồn sông không lấp đầy// Mùa tương tư ủ chín/ Nhạc tương tư ngất ngây/ Màu tương tư phơ phất/ Men tương tư nồng say (Mùa này sông cạn nước); Suốt ngàn năm không cúi đầu nô lệ/ Chim Lạc bay trên khát vọng trống đồng/ Mẹ vẫn ngóng nơi đầu non cuối bể/ Tan giặc rồi con mẹ có về không? (Tổ quốc bên bờ biển cả). Nhạc tính cuốn người đọc vào cảm xúc, làm đầy thêm cảm xúc để đồng vọng cùng thi sĩ. Chất men ấy làm say lòng người và hiệu quả biểu đạt đã được thực hiện. Ta cảm nhận được vũ khúc của mưa, hân hoan mê đắm theo gót chân thiếu nữ qua phố. Ta cảm nhận được điệu tương tư da diết trên nhịp lở bồi của dòng sông, của thời gian. Ta cảm nhận được âm hưởng trầm hùng bi tráng trong lời thơ cất lên bên bờ biển cả. Cảm xúc đưa ta đi chạm vào miền mơ tưởng của thi sĩ, để nhân lên nguồn mạch của yêu thương và gắn bó.
4. Ngôn từ, hình ảnh gợi cảm - trực quan, rút ngắn khoảng cách đồng cảm
Cảm xúc vốn là thứ vô hình, nhờ có ngôn từ, hình ảnh (ký hiệu) mà hiện hữu. Giao tiếp nghệ thuật bắt đầu bằng/ từ hình thức. Chính vì thế, đối với loại hình thơ giao cảm, để tăng hiệu quả biểu đạt, tối ưu hóa việc đồng điệu giữa thơ và người đọc, lớp ngôn từ và hình ảnh gợi cảm được sử dụng triệt để. Nguyễn Việt Chiến tỏ ra nắm rất vững cơ chế này: Tiếng gì trên cỏ vừa rơi/ Hình như phía ấy có người bỏ đi/ Đạp lên cả ánh trăng khuya/ Tiếng trăng như lá vỡ nghe thật buồn (Tiếng trăng); đèn vàng lầy lội ngõ khuya/ mưa trên phố cổ còn nghe ngậm ngùi (Phố); Ta về chín cõi yêu thương/ gặp chia ly ở mười phương hẹn hò/ Trưa nay ta bỗng sững sờ/ gặp mùi lúa chín như vừa chiêm bao/ Em đi tự cõi sống nào/ về trần gian cũ gặp bao đóa người (Chiêm bao); Nếu quê mẹ thân yêu xa vắng biển/ Mây Trường Sơn u uất sẽ thôi bay/ Sóng sông Hồng cuộn sôi mùa lũ đỏ/ Đồng Cửu Long bóng lúa mãi hao gầy (Tổ quốc bên bờ biển cả)… Trong các dẫn chứng này (và cả ở trên), tôi đều có ý bao quát các quãng thời gian khác nhau trong hơn 30 năm cầm bút của Nguyễn Việt Chiến (từ cuối những năm 80 - thế kỷ XX đến nay) cả ở mảng thơ tình và thơ thế sự, nhằm thấy được sự phổ quát của đặc tính loại hình thơ giao cảm. Ở khía cạnh ngôn từ, Nguyễn Việt Chiến sử dụng nhiều các từ có chức năng biểu cảm: buồn, ngậm ngùi, yêu thương, sững sờ, thân yêu, u uất, cuộn sôi, hao gầy… Đây là cơ chế lựa chọn tất yếu bởi trường văn hóa, trường thẩm mĩ của người đọc và tác giả vốn có những điểm gặp gỡ khi cùng sở hữu một thứ ngôn ngữ. Có lẽ, nếu làm một thống kê chi tiết, chúng ta sẽ nhặt ra được khá nhiều các từ ngữ biểu đạt trực tiếp cảm xúc của người viết, của chủ thể trữ tình trong thơ Nguyễn Việt Chiến. Ở bình diện thi ảnh, người đọc sẽ bắt gặp lớp hình ảnh gợi cảm - trực quan. Nghĩa là, gợi cảm và có thể nhận biết ngay được. Khi yêu thương nhung nhớ, thi sĩ gọi về làn hương, mái tóc, vạt áo, bàn tay, dòng sông, bờ đê, bãi mía, con đò… Khi tủi buồn trong thân phận, thi sĩ chạnh nghĩ về cỏ, về cát, về bùn, về rong rêu, lá rụng. Khi phẫn uất, căm giận hay nghẹn ngào trước các vấn đề thế sự, thời cuộc, dân tộc, đất nước, Nguyễn Việt Chiến triệu hồi các hình ảnh đậm màu sắc sử thi như Bạch Đằng Giang, Sông Hồng, Cửu Long, Trường Sơn, Trường Sa, Hoàng Sa, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Tiên Rồng, Trống Đồng, ngàn năm, sử đỏ, máu huyết, sóng, đá, biên thùy… Có thể nói, hình ảnh trong thơ Nguyễn Việt Chiến luôn đựng đầy cảm xúc, dội vào lòng người đọc ở “cự li” ngắn, thế nên những rung ngân tức khắc được cộng hưởng. Suy tưởng nhường phần cho tưởng tượng, liên tưởng, kết nối cảm xúc của thi sĩ với người đọc, tạo nên hiệu ứng thấm thía và lan tỏa.
5. Tạm kết
Những khu biệt loại hình luôn gợi lên vẻ gì đó khó chịu khi “lăm le” dán nhãn cho các thực tại. Đó là điều tôi đã luôn ý thức khi viết về Nguyễn Việt Chiến và loại hình thơ giao cảm. Sự thật, còn những bình diện, những mảng miếng khác nằm ngoài loại hình mà tôi nhận ra, thể hiện sự đa dạng trong sáng tạo của Nguyễn Việt Chiến. Chẳng hạn, phần thơ tự do với những nỗ lực cách tân cả về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Dẫu vậy, như một căn nhà lớn, chúng ta chỉ có thể quan sát từng phần, bài viết này tập trung vào mặt tiền của thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Việt Chiến. Mặt tiền này phô bày phần lớn tâm ý, cảm xúc, thái độ của chủ thể nhằm hiện diện trong bản đồ thi ca đương đại Việt Nam. Những góc khuất hay những ẩn giấu sẽ còn mời gọi chúng ta trên hành trình giao cảm và ngẫm ngợi về thi ca.
N.T.T
(TCSH411/05-2023)
CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.
NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.
PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)
TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.
NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.
NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.
TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.
THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.
HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.
TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.
INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.
TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.
HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.
VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.
TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.