NGUYỄN DƯ
Trong kho tàng thi ca Việt Nam chỉ thấy độc nhất một bài tả Hội Tây thời Pháp thuộc. Đó là bài Hội Tây của Nguyễn Khuyến.
Ảnh: internet
Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo,
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo,
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
Hồi Pháp thuộc, hàng năm cứ đến ngày 14 tháng 7, chính phủ thực dân tổ chức ngày hội rất linh đình khắp các tỉnh lỵ, nhất là ở Hà Nội thì tổ chức lại rầm rộ hơn. Quanh hồ Hoàn Kiếm, chúng tổ chức các trò chơi như chọc thùng, leo cột mỡ v.v… để làm trò mua vui cho mọi người(1).
Hội Tây của Nguyễn Khuyến rất linh đình, vui vẻ. Có pháo reo, cờ kéo, đèn treo. Có bơi trải, hát chèo. Có cả đánh đu, leo cột mỡ. Linh đình, tưng bừng đến độ làm cho nhiều người phải phân vân, tự hỏi không biết Nguyễn Khuyến đi xem Hội Tây ở đâu, năm nào?
- Câu hỏi hơi thừa. Chỉ cần lật sách báo, tranh ảnh ra xem thì sẽ biết. Ai cũng kể chuyện Hội Tây của Hà Nội. Còn năm nào thì… năm nào chả có!
*
Tại Huế…
- Năm Đồng Khánh thứ 2 (1887), tháng 5, vua ngự lầu Ngọ Môn xem duyệt binh. Vua bận quân phục lên lầu xem, sau đó lại cưỡi ngựa ngự duyệt. Lệ vua duyệt binh bắt đầu có từ năm đó(2).
Tại Hà Nội…
- Năm 1883, cao ủy Harmand khai trương việc bơi thuyền trên Hồ Gươm bằng một chiếc thuyền độc mộc mười người chèo có chỗ ngồi thoải mái che bằng mái nhẹ (…). Mỗi năm vào ngày 14 tháng 7, người ta tổ chức thi thuyền độc mộc và thuyền thúng cho dân bản xứ, mỗi đội có màu áo riêng. Điểm xuất phát là đảo Ngọc Sơn. Mỗi thuyền, ngoài các tay chèo và người bẻ lái còn có một người đánh trống(3).
- Mỗi năm, ngày 14 tháng 7, nó (chỉ chính quyền thực dân Pháp) mở hội “chính trung” để vui chơi. Nào đào nhiều hố trong một khoảng đất, thả dê vào, rồi bịt mắt người ta cho vào đuổi, đó là trò “bịt mắt bắt dê”, trò “chọc nồi”(4).
Chúng mở hội cho công chúng dự. Trò đập nồi, chạy ếch… Công chúng cười mà không biết xấu hổ(5).
- Cứ đến thứ hai đầu tháng thì xem lính Tây rước đèn… Sau đám rước là bọn vợ tây, ngồi trên xe cao su nhà hoặc xe cao su thuê, đi bước một. Trẻ con cũng đi theo(6).
Rồi lại kéo lên chợ xem leo cột mỡ, đập nồi, bịt mắt bắt dê, toàn trò chơi buồn cười. Ngoài phố, các chợ, các ngã tư, đâu cũng có những trò vui như thế. Trước cửa nhà Đốc lý có điểm binh. Buổi tối nhà binh rước đèn từ trong thành ra đi vòng Bờ Hồ.
Trong quyển Xứ Bắc kỳ ngày trước của Cờ-lốt Bua-ranh(7) có tả quang cảnh một ngày hội Tây kỳ quái như sau:
“Ngày 14 tháng 7 năm 1890 được đánh dấu bằng một cuộc diễu binh có quân kỵ mã tham gia. Các đoàn quân hùng dũng đi. Cuối cùng tới một đám quan trọng nhất.
“Đội nhạc binh kèn đồng bóng nhoáng long trọng dàn đều đằng trước đại đội lính ngự lâm oai vệ. Áo choàng đỏ. Ủng cao ngang đầu gối. Gươm dài chấm khoeo. Đoàn quân bước vuông như bàn cờ. Đến những cỗ xe bốn ngựa kéo. Trong xe có quan năm, quan sáu võ, có cả ông bảy toàn quyền Đông Dương. Các quan ngồi, mắt nhìn thẳng. Những cánh tay và cầu vai lon vàng lon đỏ rực rỡ.
“Chặp tối, có đoàn người cầm đèn cầm đuốc trong thành rước ra. Bây giờ mới tới chỗ vui hơn cả.
“Vui nhất khi một tiểu đoàn trá hình diễu qua. Đây là mấy trăm người lính tập An nam mặc giả thành người phụ nữ da đen nước Đa-hô-mây bên châu Phi (…)”(8).
Bên cạnh các bài viết của sách báo, tranh dân gian cũng để ý đến Hội Tây:
- Maurice Durand sưu tầm được một tấm tranh của hiệu Vĩnh Lợi (Hà Nội). Durand đặt tên tranh là Rước đèn ngày Hội Tây (Retraite aux flambeaux du 14 Juillet)(9). Hội Tây trong tranh có đầy đủ cờ tam tài xanh trắng đỏ, đội nhạc binh kèn đồng, đoàn quân kỵ mã, đám rước đèn (đèn trung thu!). Trong đám người đi xem có hai cặp chồng Tây vợ Việt choàng vai, khoác tay nhau, có bà ngồi xe cao su.
- Tranh Oger không có Hội Tây. Nhưng lại có nhiều tấm vẽ trò chơi của Hội Tây như leo cột, liếm chảo, đập nồi, đua thuyền v.v.
Nói tóm lại, sách báo, tranh vẽ ngày xưa đều kể chuyện Hội Tây tại Hà Nội. Có người thấy vui, nhiều người thấy đểu. Nguyễn Khuyến thấy nhục.
Nhưng, có một điều đáng ngạc nhiên là tất cả mọi người, khen cũng như chê Hội Tây,
May quá! Bác sĩ Hocquard tình nguyện đưa chúng ta đi xem Hội Tây tại Nam Định:
“Ngày 14 tháng 7 (năm 1884), thành phố Nam Định có một vẻ đẹp huyền ảo. Tất cả các phố đều treo đèn màu xanh, trắng, đỏ.
Cạnh bờ sông dựng một sàn tre, có mái che, dành cho sĩ quan quân đội và quan lại An Nam ngồi xem các trò chơi dân gian do tổng đốc tổ chức. Trước mặt khán đài này là một bãi đất bằng phẳng, trong đó có trồng nhiều cột leo, dựng nhiều cây đu và sân khấu lộ thiên. Mấy cái cột leo được mài nhẵn, đánh bóng bằng dầu dừa, trên đỉnh treo tiền thưởng. Người An Nam leo cột rất nhẹ nhàng, nhanh nhẹn. Họ sử dụng bàn chân như một dụng cụ để ôm, cầm. Đang leo cột, ai mệt có thể ngừng lưng chừng để nghỉ. Nhưng phải dùng mấy ngón chân và lòng bàn chân mà ôm giữ lấy cột.
Trong góc bãi có múa rối. Múa rối được sắp xếp đại khái cũng giống múa rối Guignol tại vườn Lục Xâm Bảo bên Pháp (…).
Bên cạnh có phường chèo. Đằng trước sàn tre là sân khấu của phường nhà trò…
Các trò bắt đầu từ mười giờ sáng, kéo dài suốt ngày cho đến lúc trời bắt đầu tối. Chúng tôi rời chỗ ngồi, đi ra bờ sông xem đua thuyền. Nhưng ban tổ chức chưa sẵn sàng. Trong khi chờ đợi, chúng tôi đi xem các trò chơi chọi gà, chọi trâu, chọi cá, bắt lợn, bắt dê.
Trò bắt dê rất độc đáo.
Sân chơi là một bãi đất tròn đường kính độ bảy, tám mét, được rào xung quanh. Người ta thả một con dê vào sân rồi cho một người đàn ông bị bịt mắt vào bắt con dê. Giải thưởng là bốn quan tiền được treo trên cây tre dựng giữa sân. Muốn thắng giải người chơi không được đụng đến khăn bịt mắt, phải lần mò nắm được sừng dê. Trong sân cắm nhiều cọc, đào nhiều hố nước, đắp nhiều mô đất. Lúc chơi người thì dò dẫm, dê thì cứ nhởn nhơ qua lại. Lúc người tóm được mớ lông dê, đang lần mò tìm cặp sừng thì dê bỗng nhảy chồm sang một bên làm cho người vấp ngã lăn kềnh. Người xem la hét khoái chí.
Phòng ăn kê hai bàn dài dọc hai bên. Các quan lại An Nam ngồi ghế gỗ dài, chỗ ngồi được sắp theo ngôi thứ.
Sau bữa ăn, ông thông ngôn của tòa sứ đọc bản dịch bài diễn văn của công sứ gửi các quan lại. Quan tổng đốc đáp lời bằng tiếng An Nam. Sau đó mọi người cùng kéo ra sân chùa xem múa…”(10).
(Tranh Oger gọi điệu múa này là Hát bài bông, mỗi vũ nữ đeo sau lưng một giá gỗ hình chữ T, hai đầu thanh ngang gắn hai cái đèn).
Hội Tây năm 1884 tại Nam Định được Hocquard chụp nhiều ảnh và tường thuật rất đầy đủ.
Các trò vui thì có bơi trải, hát chèo, diễn tuồng, nhún đu, leo cột mỡ và nhiều trò chơi khác. Đặc biệt Hội Tây này có một bà đầm thu hút sự chú ý của mọi người.
Rõ ràng Hội Tây Nam Định có đủ hết những điều được Nguyễn Khuyến kể trong bài thơ. Hay ngược lại, có thể nói là Nguyễn Khuyến đã tóm tắt bài tường thuật của Hocquard bằng mấy câu thơ.
Bài phóng sự và bài thơ cho phép kết luận rằng Hội Tây của Nguyễn Khuyến chính là Hội Tây năm 1884 tại Nam Định.
Ngẫu nhiên, Nguyễn Khuyến trở thành một nhân chứng của Hội Tây đầu tiên tại nước ta.
Cũng có thể nói rằng Hocquard là tác giả của tấm ảnh được in trong nhiều sách báo, chụp cụ Nguyễn Khuyến tay cầm chén rượu tại bữa tiệc của Hội Tây này.
*
Xin bàn thêm.
Công sứ nào đã ra lệnh cho tổng đốc nào đứng ra tổ chức Hội Tây Nam Định hoành tráng như vậy?
Xin nhắc lại vài sự kiện lịch sử:
Ngày 27/3/1883 Pháp chiếm thành Nam Định. Tháng 4/1883, Tổng đốc Nam Định Vũ Trọng Bình bị gọi về Kinh. Tôn Thất Trường lên làm hộ lí Tổng đốc Định-Yên. Tháng 7/1883, Phan Đình Bình thay Tôn Thất Trường.
Ngày 23/7/1883, Cao ủy Jules Harmand đến Bắc Kỳ để tổ chức cuộc bảo hộ.
Ngày 25/8/1883, triều đình Tự Đức phải ký hòa ước Harmand.
Hòa ước Harmand, tiền thân của hòa ước Patenôtre (ký ngày 6/6/1884), chính thức công nhận cuộc bảo hộ của Pháp.
(Điều 5: Nam triều (Chính quyền An Nam) phải ra lệnh cho các quan chức Bắc Kỳ trở lại chức vụ cũ, phải tuyển người vào chức vụ còn trống, và phải phê chuẩn, sau khi được phía Pháp đồng ý, các chức vụ do Pháp bổ nhiệm.
Điều 14: Các quan công sứ không tham dự vào các chi tiết của việc quản lý tại địa phương. Các quan bản xứ mọi cấp tiếp tục cai trị và kiểm soát hành chính, nhưng họ có thể bị sa thải nếu không chịu phục tùng quan công sứ.
Điều 17: Các quan công sứ kiểm soát cảnh sát của các thành phố và quyền kiểm soát các nhân viên bản xứ này sẽ được gia tăng theo đà phát triển của thành phố).
Kể từ ngày 25/8/1883, Pháp nắm quyền bổ nhiệm và bãi nhiệm quan lại các cấp tại Bắc Kỳ.
Ngày 19/6/1884, Auguste Gouin (trước đây là sĩ quan tùy tùng của Cao ủy Harmand) được bổ làm công sứ Nam Định.
Công sứ Gouin chọn ai làm tổng đốc Nam Định? Người được chọn đương nhiên phải biết cúi đầu phục tùng quan công sứ và phải nắm rõ tình hình địa phương để giúp Pháp bình định.
Người hội đủ điều kiện như vậy có lẽ chỉ có Vũ Văn Báo.
“Vũ Văn Báo, người xã Vĩnh Trụ, huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nội, là con tiến sĩ Vũ Văn Lý (thầy học của Nguyễn Khuyến), anh cử nhân Vũ Văn Nghị, đỗ tiến sĩ khoa 1868. Làm quan trải các chức: tổng đốc Định-An; tổng đốc Tam Tuyên; phó sứ sang Pháp. Sau về quê bị hại”(11).
Vũ Văn Báo cộng tác đắc lực với Pháp.
Ngày 27/3/1883, Pháp chiếm thành Nam Định.
“Vũ Hữu Lợi (người Nam Định, đỗ tiến sĩ khoa 1875) đương giữ chức đốc học, bỏ quan về (người Pháp mới đến lấy nước Việt, đánh một thành, hạ một phủ huyện, có kẻ nào đầu hàng cứ cho giữ y hàm quan cũ). Cùng với bạn là Đỗ Huy Liệu ngầm mưu tính thu phục, nhưng chưa kịp khởi sự thì vừa lúc được Chiếu Cần Vương ban xuống, dẫn quân đánh Pháp, giặc đánh mãi không được. Bấy giờ có tên đội mũ tiến sĩ là Vũ Văn Báo. Quân Pháp đem quan to dụ lót tên Báo, Báo đứng ra làm gián điệp, Báo là bạn đồng niên của Lợi, Lợi tin, Báo dẫn quân Pháp vào đồn, Lợi bèn bị bắt. Bấy giờ Bắc Kỳ chưa định yên, Pháp muốn đưa Lợi làm quan để thu nhân tâm, ông trước sau không chịu khuất, giặc bèn đem chém bêu đầu ở chợ thành Nam đúng hôm trừ tịch cuối năm”(12).
Pháp đem quan to dụ lót Báo năm nào? Các sách không nói rõ. Nhưng có thể dựa vào vài nguồn tin để phỏng định:
1) Auguste Gouin được bổ làm công sứ Nam Định ngày 19 tháng 6 năm 1884. Hòa ước Harmand cho phép công sứ bổ nhiệm tổng đốc. Có thể là Gouin đã bổ nhiệm Vũ Văn Báo làm tổng đốc Nam Định trong khoảng từ ngày 19 đến cuối tháng 6 năm 1884.
Hai quan lớn mới nhậm chức, hăm hở cùng nhau quyết tâm tổ chức Hội Tây Nam Định (14 tháng 7 năm 1884) cho thật đình đám.
2) Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến vốn là học trò của ông nghè Vũ Văn Lý, cha của Vũ Văn Báo. Nguyễn Khuyến nhận Vũ Văn Báo là thế huynh.
“Ngày 17/12/1883, Pháp chiếm thành Sơn Tây. Tổng đốc Sơn Tây Nguyễn Đình Nhuận bỏ chạy lên Hưng Hóa cùng Nguyễn Quang Bích tổ chức kháng chiến. Do thực dân Pháp thúc ép phải cử người thay thế, kinh lược Bắc Kỳ hồi bấy giờ là Nguyễn Hữu Độ, nhân danh triều đình cử Trực học sĩ Nguyễn Khuyến bấy giờ đương dưỡng bệnh ở quê nhà làm quyền tổng đốc Sơn Tây nhưng ông từ chối không đi nhậm chức đó. Phần đau buồn vì vận nước, phần không muốn cộng tác với giặc Pháp, Nguyễn Khuyến viện cớ đau mắt kiên quyết từ quan. Chính Nguyễn Khuyến đã tự thân hành vào Kinh vận động xin từ chức. Lúc đó ông mới 50 tuổi”(13).
(Ta đến năm mươi tuổi là cáo quan về nghỉ (Tự thuật). Nguyễn Khuyến sinh năm 1835. Tính theo tuổi ta, ông cáo quan về nghỉ năm 1884. Cuối tháng 12/1883, ông vào Kinh xin nghỉ và được chấp thuận vào khoảng đầu năm 1884).
Theo ý quan thầy Pháp, Vũ Văn Báo, tổng đốc Nam Định, con thầy học cũ của Nguyễn Khuyến, khuyên cụ trở ra làm quan(13).
Cụ thể là Vũ Văn Báo, mới được bổ nhiệm làm tổng đốc Nam Định, đã mời Nguyễn Khuyến đi xem Hội Tây năm 1884 do mình đứng ra tổ chức, mời cụ dự tiệc do công sứ Gouin thết đãi, hy vọng sẽ dụ dỗ khuyên được cụ ra hợp tác với Pháp!
Bị thế huynh thúc ép như vậy mà Nguyễn Khuyến vẫn không chịu ra hợp tác với Pháp. Đáng phục thay.
Bộ ba Gouin, Girod, Vũ Văn Báo biết nhau tại Nam Định, lại gặp nhau ở Sơn Tây.
Girod kể lại buổi gặp Vũ Văn Báo hồi tháng 7/1887 tại Sơn Tây:
“Tổng đốc bước vào phòng. Nụ cười trên môi, trông rất dễ thương, ông tỏ vẻ không thắc mắc gì, chìa tay bắt tay tôi. Vũ Văn Báo là một nhà chính trị khôn ngoan, không muốn có chuyện rắc rối và chỉ muốn giữ một bề ngoài trung lập đối với các nhà truyền giáo và giáo dân. Con người khéo léo này ít lâu sau được làm Thượng thư bộ Lễ và được đi sứ sang Pháp dự Đấu xảo năm 1889.
Lúc trở về nước, Vũ Văn Báo gặp sự cố đáng tiếc. Lúc ông đang ở trang trại tại quê nhà thì bị giặc cướp giả dạng dân quân bắt cóc. Ông năn nỉ xin mang hết gia tài ra chuộc mạng, nhưng giặc cướp quyết trả thù, trói ông mang sang Bãi Sậy hành hạ, rồi giết ông(15).
Girod nói rằng sau ngày gặp nhau (tháng 7/1887), Vũ Văn Báo được làm Thượng thư bộ Lễ. Thông tin này đúng.
Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn chép:
- Năm Kỷ Sửu (1889) mùa hạ, tháng tư sai sứ thông hiếu với Đại Pháp. Lấy Quỳnh quốc công Miên Triệu (hay Miên Triện?) sung Chánh sứ, gia Thượng thư bộ Lễ Vũ Văn Báo làm phó sứ, Thị lang bộ Lễ Nguyễn Trừng làm Bội sứ cùng Tham tá Nguyễn Thoại, thông dịch Nguyễn Hữu Mẫn và tùy hành là bọn Hồng Dánh, Đoàn Phương mười người đem theo quốc thư (…) giao cho sứ bộ theo đó mà làm.
- Năm Canh Dần (1890) tháng 11. Nha Kinh lược Bắc Kỳ báo tin giặc cướp ở Hà Nam, đảng giặc khoảng 40 tên mặc quần áo lính tập, có súng ống, đi thuyền xông vào nhà nguyên sung Như Tây phó sứ Vũ Văn Báo ở xã Vĩnh Trụ bắt Văn Báo (kế Báo bị giặc giết chết), cử nhân Vũ Văn Nghĩa (hay Nghị?) và gia quyến 5 người nam nữ, gia đinh một người đều bị bắn chết(16).
Sách Thái Bình tỉnh thông chí chép Vũ Văn Báo bị Đốc Nhưỡng (Đinh Khắc Nhưỡng, học trò của ông nghè Giao Cù Vũ Hữu Lợi) cùng một số nghĩa quân mặc giả quần áo lính tập bắt tại Nam Xương (nay thuộc Hà Nam Ninh), bị giết trong một buổi lễ tế cờ khởi sự của nghĩa quân tại làng Khả Lậu (nay thuộc xã Duyên Hải, huyện Hưng Hà)(17).
Vũ Văn Báo được Gouin (?) bổ làm tổng đốc Tam Tuyên vào khoảng giữa năm 1886. Đầu năm 1888, Girod còn liên lạc với Vũ Văn Báo ở Sơn Tây. Có thể phỏng đoán là Vũ Văn Báo được gia Thượng thư bộ Lễ khoảng giữa hay cuối năm 1888, trước khi được cử đi sứ sang Pháp (mùa hạ năm 1889).
Lyon, 4/2020
N.D
(TCSH378/08-2020)
------------------
(1) Thơ văn Nguyễn Khuyến, Văn Học, 1971, tr. 118.
(2) Đồng Khánh, Khải Định chính yếu, Thời Đại, 2010, tr. 166.
(3) André Masson, Hà Nội giai đoạn 1873 - 1888, Lưu Đình Tuân biên dịch, Hải Phòng, 2003, tr. 139.
(4) Hoàng Đạo Thúy, Thăng Long Đông Đô Hà Nội, Hội Văn Nghệ Hà Nội, 1971, tr. 83.
(5) Nguyễn Công Hoan, Nhớ và ghi về Hà Nội, Trẻ, 2004, tr. 18-19.
(6) Nguyễn Công Hoan, sđd, tr. 10.
(7) Claude Bourrin, Le vieux Tonkin 1890-1894, IDEO, 1941. Sách có tranh vẽ cuộc diễn binh ngày 14 tháng 7 năm 1892 tại Hà Nội.
(8) Tô Hoài, Chuyện cũ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1986, tr. 177.
(9) Maurice Durand, Imagerie populaire vietnamienne, EFEO, 2011, tr. 257.
(10) Docteur Hocquard, Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr. 290 - 305.
(11) Cao Xuân Dục, Quốc triều khoa bảng lục, Văn Học, 2001.
(12) Phan Bội Châu, Việt Nam vong quốc sử, Văn Sử Địa, bản in lại tại Pháp, 1972, tr. 35.
(13) Thơ văn Nguyễn Khuyến, sđd, tr. 12, 28.
(14) Paulin Vial, Nos premières années au Tonkin, 1889, tr. 364.
(15) Léon Girod, Dix ans de Haut-Tonkin, Alfred Mame, 1904, tr. 77.
(16) Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ Phụ biên, Văn Hóa Văn Nghệ, 2012, tr. 85, 131.
(17) Văn học dân gian Thái Bình, tập 1, Khoa Học Xã Hội, 1981, tr. 330.
VŨ TRỌNG QUANG
I. HÀNH TRÌNH TẤT YẾU
Bước chân bắt đầu từ khởi điểm Octavio Paz “Giữa im lặng và tiếng nói, đó là thơ”. Vậy thì im lặng hay lên tiếng, có người nói thơ là tiếng nói, và có người cho vô ngôn là một giá trị.
ROLAND BARTHES
Trong cuộc chiến giữa bạn với thế giới, hãy đặt thế giới ở hàng thứ cấp (Franz Kafka)
LÊ QUANG THÁI
Việt Nam đã có thơ mới sánh cùng với thơ mới của các nước Nhật Bản, Trung Hoa, Indonesia; khác nhau ở chỗ phong trào thơ mới dậy lên sớm hơn hoặc muộn hơn ba năm mà thôi. Còn các nước Thái Lan, Lào và Campuchia không có chuyện thơ mới bởi lẽ tình hình văn nghệ thiếu điều kiện phát triển.
PHẠM TẤN XUÂN CAO
Cầm tay chưa muộn nối lời
Nghiêng mình gửi mộng mây trời lang thang
(Bùi Giáng)
VĂN GIÁ
Tôi bắt đầu nhan đề bài viết bằng một câu hỏi có vẻ như khá liều lĩnh? Nó sẽ lập tức dẫn đến một phản biện ngay sau đó: “Hay” là một cách nói định tính, không tường minh được, anh cho là hay, tôi cho là không hay, thậm chí là dở thì thế nào?
BỬU Ý
(Nhân dịp giới thiệu tập sách của nhiều tác giả “Thơ Tân Hình Thức Việt - Tiếp nhận và sáng tạo” tại tòa soạn tạp chí Sông Hương, Huế, ngày 15.8.2014)
PHAN NGỌC THU
Cùng với văn học cả nước, hiện nay, văn học ở mỗi vùng đất cũng đang đứng trước yêu cầu lớn lao của công cuộc đổi mới.
“Chúng sanh chìm bùn dục
Những kẻ không thấy đời…”
Subha.
PHẠM XUÂN NGUYÊN
“Cái hèn” này, gần đây, đã được một số người nói đến khi nhìn lại một giai đoạn văn học vừa qua. Nhưng tôi có cảm tưởng tác giả đó chỉ mới đủ dũng cảm để dám nói về “cái hèn” của mình so từ bên ngoài mình đưa tới mà thôi.
HOÀNG LONG
Trên thế giới, thể loại truyện cực ngắn có nhiều tên gọi. Ngoài tên thông dụng nhất là “truyện cực ngắn” hay “truyện rất ngắn” thì còn có các tên truyện chớp, truyện ngắn ngắn…
LẠI NGUYÊN ÂN
Khi bàn tới những vấn đề không đơn giản như quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, thiết tưởng chẳng những cần xét xem về mặt logic lý luận thì nên quan niệm thế nào cho thỏa đáng, mà còn cần xét về mặt lịch sử, quan hệ này đã được biểu hiện ra sao, thực chất của nó là gì, v.v…
ANH CHI
Sau khi đọc tiểu luận Ý nghĩa một đời người của tôi trên tạp chí Nhà văn và Tác phẩm số Tết Giáp Ngọ 2014, nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện đã viết bài Về các tiểu luận cho là của Lê Tràng Kiều trong “Văn chương và hành động” (NV&TP số tháng 3 và 4/2014), ghi là “trao đổi với Anh Chi”. Nhưng, nội dung bài viết đó cho thấy anh chỉ hành xử với nhà văn Lê Tràng Kiều, và cách hành xử vẫn như cũ. Do vậy, tôi thấy cần phải viết bài tiểu luận này để trao đổi lại.
LGT: Bản dịch của chúng tôi lấy từ lời giới thiệu của Cheryll Glotfelty trong “Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học” do Cheryll Glotfelty và Harold Fromm chủ biên.
NGUYỄN HỮU LỄ
...Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ (1914 - 1987), quê ở xã Văn Dương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế trong một gia đình hoàng tộc. Bằng con đường tự học, Tôn Thất Dương Kỵ đã trở thành một nhà nghiên cứu lịch sử, một nhà giáo, đồng thời là một trí thức yêu nước, một chiến sĩ cách mạng…
TRẦN ĐÌNH SỬ - LÃ NGUYÊN
(Nhân bài báo của Ngô Tự Lập Đọc sách “Lột mặt nạ Bakhtin - câu chuyện về một kẻ lừa dối, một chuyện bịp bơm và một cơn mê sảng tập thể” của Jean - Paul Bronckart và Cristian Bota (Thụy Sĩ, 2011, 630 trang))
DƯƠNG PHƯỚC THU (Sưu tầm, giới thiệu)
LGT: Đã từng có một cuộc xướng họa thơ trên báo với số lượng người tham gia đông kỷ lục; 1324 lượt tác giả với 1699 bài họa. Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu lại Vườn thơ đoàn kết do Báo Cứu Quốc - nay là Báo Đại Đoàn Kết tổ chức xướng họa thơ cách đây đã 43 năm.
LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920.
LÊ DỤC TÚ
“Chủ nghĩa nhân văn tôn giáo cũng là một nguồn cảm hứng của văn nghệ, đồng cảm với con người nhân đạo trong văn chương”...
MAI VĂN HOAN
Ngôn ngữ nói chung và chữ tôi nói riêng, khi bước vào tác phẩm văn học cũng có số phận thăng trầm liên quan mật thiết đến những thăng trầm của lịch sử nước nhà. Tìm hiểu chữ tôi trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam là một đề tài khá lý thú. Ở bài viết này, tôi chỉ đi sâu khảo sát chữ tôi được thiên tài Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm Truyện Kiều.
NGÔ MINH
Bản lĩnh văn hóa là cuốn sách gồm các bài báo và tiểu luận của nhà văn Tô Nhuận Vỹ do Nxb. Tri thức ấn hành năm 2014. Tôi đọc một mạch với sự xúc động và hứng khởi.