Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".
Nguyễn Huy Thiệp vẫn đủ sức hấp dẫn ngay cả khi ông kiệm lời nhất. Ảnh: KMS
Tọa đàm "Nhà văn có nên viết phê bình văn học" diễn ra ngày 8/9 mới đây nhân dịp cuốn Giăng lưới bắt chim của Nguyễn Huy Thiệp được tái bản đã thu hút sự có mặt của khá nhiều tên tuổi nổi bật trong giới văn chương Việt Nam. Đa số ý kiến phát biểu đều cho rằng, viết phê bình là việc thường thấy của nhà văn. Vấn đề cần phải viết thế nào, viết cái gì để phê bình của nhà văn trở nên hấp dẫn, độc đáo và có giá trị.
"Luận anh hùng"
Việc Nguyễn Huy Thiệp, một nhà văn thành danh trong sáng tác, cũng đồng thời viết phê bình văn học không phải là hiếm. "Một nhà văn thực sự phải là một nhà tư tưởng - TS. Chu Văn Sơn đưa ra lí giải của mình. Có thể tư tưởng được ẩn giấu trong sáng tác. Nhưng cũng có thể trực tiếp bộc lộ khi viết phê bình". Theo ông, phê bình của nhà văn, nhìn chung, thường có ba loại: viết để thù tạc, hữu hảo; viết để trao đổi chuyện nghề và từ đó, để truyền nghề; viết để trao đổi với nhau về đạo của người viết. Ở dạng thứ ba, ông nhấn mạnh, là khó khăn nhưng cũng đáng chú ý hơn cả. Với Nguyễn Huy Thiệp, TS. Chu Văn Sơn nhận thấy nhà văn viết phê bình là cách để chia sẻ những suy nghĩ, trăn trở về "đạo viết", bên cạnh và song song với sáng tác là để băn khoăn về "đạo sống".
Mở rộng hơn, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều cho hay: ở Mỹ vẫn luôn có phê bình kinh viện của giới nghiên cứu, giảng dạy và phê bình của giới nhà văn. Và chỉ khi nào hai tiếng nói này cùng được thấu đáo thì khi đó mới có thể nắm bắt được giá trị của văn học. Cùng Chu Văn Sơn, ông liệt kê một số tên tuổi nhà văn viết phê bình như L.Tolstoy, M. Kundera, O. Paz, R. Tagore, J. Brodsky…Thực ra, danh sách các nhà văn viết phê bình (hoặc nghiên cứu) văn học trên thế giới kéo dài đến mức khó mà liệt kê chốc lát. Chỉ cần nhìn vào các nhà văn đạt giải Nobel văn học thập niên qua, chúng ta cũng đã thấy rõ tính cách "nhị trùng", "hai trong một" vừa sáng tác vừa nghiên cứu phê bình của những J. M. Coetzee, O. Pamuk, M.Vargas Llosa, J.M.G le Clézio... Có thể nói, với họ, không có sự phân định rạch ròi nào giữa nhà văn chuyên chú sáng tác và nhà nghiên cứu phê bình sành sỏi ngón nghề hàn lâm. Môi trường giảng dạy (thường là đại học) hoặc báo chí văn hóa văn chương càng thúc đẩy họ trở nên năng sản và bài bản hơn trong việc công bố các tiểu luận phi hư cấu. Hình ảnh tạm chấp nhận để gọi họ hẳn là trí thức, những người có kiến văn sâu rộng, có đủ khả năng và nhiệt huyết lên tiếng trong nhiều lĩnh vực, vấn đề khác nhau.
Nhà văn viết phê bình là một cách "luận anh hùng". Muốn viết về ai, sắp đặt họ theo thang bậc vị trí nào, thì bản thân người viết cũng phải là một bậc "anh hùng" có thể nhận ra chân tướng và khả năng của người khác. Nhà văn Nguyễn Việt Hà |
Ở Việt Nam, truyền thống các nhà văn viết phê bình cũng liên tục tiếp nối. Thậm chí, nhiều nhà văn còn tìm thấy ở phê bình một cơ hội trổ tài, một bù đắp có hậu khi ngòi bút sáng tác lâm vào thế "sa sút phong độ". Trường hợp Xuân Diệu, phần nào Chế Lan Viên hay Nguyễn Tuân sau 1945 là ví dụ tiêu biểu của việc xây dựng "thương hiệu" lao động phê bình. Nếu không có những Ba thi hào dân tộc, Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm, Thơ Tế Xương, Tìm hiểu Tản Đà, người đọc khó lòng lí giải sự tài hoa, uyên bác của Xuân Diệu nằm ở đâu. Sau nhiều câu thơ vần vè, Xuân Diệu đã có một vài phát hiện, bình luận văn chương chói sáng. Dĩ nhiên, phải là nhà văn "cỡ nào" thì mới có thể "thoát thân" hoặc tạo được thân danh trong lĩnh vực phê bình vốn nhọc nhằn, lắm khi cả đời hì hục viết chỉ để thiên hạ lấy làm giấy pháo. Lưu lại vài chữ trong phê bình không cứ cần cù, chăm chỉ mà thành.
Nhà văn Nguyễn Việt Hà, chiểu theo truyện Tam quốc, hình dung việc nhà văn viết phê bình là một cách "luận anh hùng". Muốn viết về ai, sắp đặt họ theo thang bậc vị trí nào, thì bản thân người viết cũng phải là một bậc "anh hùng" có thể nhận ra chân tướng và khả năng của người khác. So sánh thú vị này khiến chúng ta phải chú ý đến con mắt tinh đời, sự đọc tinh tế của nhà văn. Bởi ở họ, ngoài vốn kiến thức sách vở, thì sâu sắc và độc đáo hơn cả vẫn là những trải nghiệm, kinh nghiệm viết văn, thứ vũ khí nếu biết cân chỉnh đúng góc, sẽ luôn trúng tâm nhiều vấn đề hóc hiểm. Những nhà phê bình được coi là chuyên nghiệp, được đào tạo kinh viện thường mạnh ở sự bài bản, khái niệm, phương pháp… Trong khi nhà văn lại sắc sảo, ghê gớm ở những đồng điệu, tán thưởng và gọi tên tính cách văn chương của đồng nghiệp. Vì thế, khi tiến cử ai, đọc tác phẩm nào, họ cũng đều lẩy ra vài nét thần tình. Nhìn cung cách Nguyễn Huy Thiệp giới thiệu Đồng Đức Bốn, Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Việt Hà và đặc biệt là Nguyễn Bảo Sinh, chúng ta phải thừa nhận không ít chính xác, thấu lí đạt tình trong đó.
Một nhà văn viết phê bình có thể không sử dụng các khái niệm công cụ, các thuật ngữ. Nhưng họ có hệ thống câu chuyện, tích truyện, các lớp lang hình ảnh, cách liên tưởng so sánh hiếm khi khô cứng. Do đó quá trình tiếp nhận của độc giả diễn ra nhanh chóng hơn và đây mới là điều các nhà văn quan tâm. Lối đi chung giữa nhà văn viết phê bình và độc giả còn có những ngõ ngách trực cảm, cảm xúc, những khúc ngoặt ưu thời mẫn thế, những chỗ dừng lại lâu hơn về thế thái nhân tình. Đọc phê bình của nhà văn mà Giăng lưới bắt chim là điển hình, người đọc có thể nhớ lâu về sự "lằng nhằng" của mỗi người, về những đau đớn và bất hạnh, bạc bẽo, hiểm hóc, trắng trợn, tởm lợm, cay cú, hèn hạ, nhăng nhố, bợm bãi, vớ vẩn,...bày chật trong văn chương và đời sống. "Luận anh hùng", vì vậy, cũng là luận thời thế, luận cuộc đời.
"Có đúng có sai"
Nói về cuốn sách của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông " lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh". Trong lời bộc bạch này, ông giấu một nụ cười nhẹ nhõm, thông thái vì đã vượt qua được những vướng víu khen/chê. Ông biết nhầm lẫn, sai khuyết cũng là một phần tất yếu của người đời. Nhà văn, hẳn nhiên, không ngoại lệ. Nhưng với những ai nhất nhất theo lối nhị nguyên biện biệt đúng/sai, tốt/xấu, thiện/ác,…, sẽ không những khó chịu với văn chương Nguyễn Huy Thiệp mà còn bị ức chế khi đọc phê bình của ông. Bởi trước khi nhận định được ông đúng hay sai, phần lớn đều vấp phải giọng điệu, cách diễn đạt thẳng thắn đến mức "trắng phớ", đôi khi gây hấn với những đôi tai quen nghe thuận chiều.
Thời điểm Nguyễn Huy Thiệp bắt đầu viết phê bình, cuối thập niên 1980, cũng là cao trào giới nhà văn nảy sinh quan điểm, ý kiến văn chương mới mẻ. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Phạm Thị Hoài,… đều từng gây tranh luận vì những phát biểu mang tính chất phản biện, tái nhận thức, tái thẩm định của mình. Muộn hơn, các bài viết của Trần Mạnh Hảo (Thơ phản thơ), Đỗ Minh Tuấn (Ngày văn học lên ngôi), Trần Đăng Khoa (Chân dung và đối thoại) cũng tạo không ít dư luận. So với nhiều công trình nghiên cứu phê bình chuyên sâu, các cuốn sách trên có lượng độc giả khá lớn, có kiểu chinh phục người đọc rất lạ thường. Giăng lưới bắt chim, sau lần xuất bản đầu tiên (2005), cũng đã được giới chuyên môn đánh giá cao. Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến bắt gặp ở cuốn sách "những vấn đề đáng quan tâm, những ý kiến đáng suy nghĩ". Nhà phê bình Vương Trí Nhàn coi đó là "một sự phá cách", "đặt mình vào dòng chảy thời đại" . Trong buổi tọa đàm, nhà thơ Trần Đăng Khoa đề cao giọng văn khó lẫn, thậm chí bịt tên Nguyễn Huy Thiệp, người đọc cũng nhận ra sau khi đọc vài ba dòng. GS Trần Đình Sử thì khẳng định "sự chuẩn bị về nội lực", PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp lại chú ý đến "cách nhìn, cách kiến giải riêng". Lý thú và cô đọng, nhà phê bình Chu Văn Sơn đặt lối viết phê bình của Nguyễn Huy Thiệp trong chữ "phũ" với nghĩa là nó từ chối các lớp ngôn ngữ hàn lâm, ngôn từ chính trị, ngôn ngữ đèm đẹp của văn hóa. Nó cũng từ chối cách nói nương nhẹ. "Phũ", vì thế, là phản ứng về sự "vô đạo" trong văn chương.
Đọc Giăng lưới bắt chim có thể nhận diện được những nguồn ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành quan niệm, đường hướng thực hành văn chương của Nguyễn Huy Thiệp. Ông chọn xuất phát điểm ca dao tục ngữ dân ca "bởi đây thực sự là một kho tàng kinh nghiệm đời sống và kinh nghiệm tu từ". Ông hưởng ứng Nguyễn Văn Siêu, Lê Quý Đôn. Ông trích dẫn A. Rimbaud, G. Le Bon, F. Dostoievski, M. Gorki và cả B. Spinoza lẫn F. Nietzsche. Họ đóng vai gợi ý, gợi mở cho những điều ông bàn luận thêm quyết liệt và vững chắc. Nhưng đáng chú hơn cả vẫn là suy tư của ông về tư tưởng nhà văn, vai trò của thơ, thời của tiểu thuyết, chính trị và văn chương… Ở đó, nhiều kết luận, chiêm nghiệm của ông có thể đóng khung như một châm ngôn, một kim chỉ nam cho người viết đến sau. Ông coi trọng công việc "nghiên cứu tâm lí dân tộc" khi bắt đầu cầm bút. Ông chủ trương "trở lại tự nhiên". Ông khuyến khích "cười lên đi"… Đó thực sự là những điều căn cốt, vừa có tính thời sự nhưng cũng vươn đến tầm phổ quát. Có đúng có sai nhưng ít nhất, nó đã chuyển hóa nhuần nhuyễn trong nhiều sáng tác vang danh của ông.
Giăng lưới bắt chim, thú vị thay, mang lại cho Nguyễn Huy Thiệp giải phê bình của Hội nhà văn Hà Nội (2006). Điều này cũng làm nhiều bạn đọc văn chương bớt băn khoăn rằng tại sao một nhà văn được dịch ra nhiều ngôn ngữ quốc tế, từng nhận Huân chương Văn học nghệ thuật của Chính phủ Pháp (2007) và giải thưởng Nonino Risit d'Âur của Ý (2008) như Nguyễn Huy Thiệp lại khó vừa khuôn giải thưởng nội địa Việt Nam đến thế.
Nguồn: Nam Phú - Tia Sáng
---
1 Xem thêm bài viết Bới trong những mớ "nhố nhăng" và "nhầm lẫn"… của Hoàng Ngọc Hiến và bài Giăng lưới bắt…lý luận của Vương Trí Nhàn xuất hiện trong phần "Dư luận" của Giăng lưới bắt chim bản tái bản năm 2006 (NXB Hội Nhà văn và Đông A)
Liên tục những tin vui đến với văn chương Việt Nam: nhà văn Nguyễn Ngọc Tư nhận Giải thưởng LiBeraturpreis 2018 do Hiệp hội Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) trao tặng cho tác phẩm Cánh đồng bất tận.
Những bài viết ngắn trong cuốn sách Đủ nắng thì hoa nở (Phương Nam Book và NXB Văn hóa - Văn nghệ ấn hành) cũng chính là những trải nghiệm cả về đời lẫn đạo của tác giả Ba Gàn. Nhờ đó, cuốn sách mang đến những giá trị hữu ích cho độc giả, nhất là những người đang đi tìm mục tiêu để sống.
Hướng tới kỷ niệm 10 năm ra số đầu tiên (2010 - 2020), ngày 28/11, tại Hà Nội, tờ Thời Nay (Báo Nhân dân) phối hợp Ban Nhà văn trẻ (Hội Nhà văn Việt Nam) tổ chức buổi ra mắt 2 cuốn sách “Giấc mơ trên những cánh rừng”, và “Nơi ta đã qua, người ta đã gặp”.
Dự án Nhóm 4. 0 của Nền tảng Xuất bản Điện tử Waka, là dự án sáng tác theo mô hình nhóm đầu tiên tại Việt Nam được xây dựng và triển khai với kỳ vọng tạo ra một sân chơi hỗ trợ các tác giả trẻ yên tâm phát triển sự nghiệp sáng tác của mình.
Đối thoại với hoa (NXB Văn hóa - Văn nghệ TPHCM, tháng 11-2018), tập tiểu luận phê bình thứ 7 của Nguyễn Thị Minh Thái, là cuốn sách kỷ niệm 45 năm bước vào nghề văn của tác giả.
Cảm hứng viết văn ở chính trong cuộc sống của mỗi chúng ta, việc viết văn phải tải chứa một điều gì đó chứ không viết chung chung. Trong tác phẩm văn học cũng phải truyền tải những giá trị nhân văn, định hướng tích cực để người đọc biết trân quý những gì mình đang có.
Là vùng đất quen thuộc trong miền sáng tạo, vẻ đẹp Hà Nội không chỉ được diễn tả bằng hình ảnh mà còn hiển hiện vô cùng tinh tế, sống động trong nghệ thuật ngôn từ. Với vô số tác phẩm văn học viết về Thủ đô từ xưa tới nay, để khai phá, phát lộ những điều mới mẻ về thành phố này là thử thách không nhỏ với mỗi nhà văn.
Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhà văn Nguyên Hồng (5/11/1918 - 5/11/2018), lần đầu tiên, “Nhật ký Nguyên Hồng” ra mắt bạn đọc. Hơn 600 trang nhật ký Nguyên Hồng viết từ năm 1941 đến trước khi ông mất (1982) đã được công bố. Những trang viết hiển hiện cả một thời kỳ, sống động và chân thực. Đặc biệt là đời sống văn nghệ của đất nước trong suốt hơn nửa đầu thế kỷ XX. Được sự đồng ý của NXB Trẻ và đại diện gia đình nhà văn Nguyên Hồng, chúng tôi trích giới thiệu một số trang nhật ký của ông.
Rời "cõi tạm" khi tuổi đời còn rất trẻ (24 tuổi) song cha đẻ của bài thơ Hôm qua em đi chùa Hương - tác giả Nguyễn Nhược Pháp đã để lại khối lượng những sáng tác đáng kinh ngạc và thán phục, một tài năng đã chớm nở từ rất sớm và đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Sáng 5/11 tại Trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp hợp với gia đình nhà văn Nguyên Hồng tổ chức Lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn Nguyên Hồng (5/11/1918 - 5/11/2018). Ông được đánh giá là một trong những nhà văn ưu tú nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại với các tác phẩm như: Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu, Cửa biển...
Có nhiều cuốn sách lọt vào danh mục “bestsellers” của các NXB, hàng chục năm nay nhà văn Nguyễn Nhật Ánh luôn giành vị trí tác giả “ăn khách” trong làng văn chương. Đa tài trong nhiều lĩnh vực, và thể loại sáng tác nhưng ông có biệt tài xuất sắc trong mảng sáng tác dành cho tuổi teen.
NXB Phụ nữ vừa ra mắt cuốn sách "Những nhân chứng cuối cùng" - một trong những tác phẩm góp phần làm nên giải Nobel văn học của nữ nhà văn Belarus Svetlana Alexievich - người được biết đến nhiều với các tác phẩm đã in và phát hành ở Việt Nam như “Chiến tranh không mang gương mặt phụ nữ”, “Lời nguyện cầu từ Chernobyl”.
Ngày 25/10, tại TP HCM, cuốn sách “Kiến Phật” của tác giả người Anh - Rose Elliot đã chính thức ra mắt độc giả Việt Nam.
Sáng 24-10, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư vừa có buổi gặp gỡ và ký tặng sách cho độc giả tại Đường sách TPHCM nhân dịp chị vừa trở về từ Hội sách Frankfurt với giải thưởng LiBeraturpreis 2018, và ra mắt tập truyện ngắn Cố định một đám mây.
Ba cây bút trẻ Kai Hoàng, Thái Cường và Hoàng Khánh Duy vừa có cuộc chuyện trò về sáng tác văn chương gắn với cuộc sống đương đại tại Đường sách sáng 20/10 nhân khai mạc Tuần lễ sách hay.
Bên cạnh những tác phẩm mang hơi thở thời đại, đời sống văn chương trong nước gần đây còn xuất hiện những tác phẩm từng được xuất bản từ trước. Dù ra mắt cách đây hàng chục năm, nhưng nhiều tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị và với không ít bạn đọc ngày nay, đó vẫn là những tác phẩm mới.
Tiểu thuyết về một chàng trai nổi loạn, dính vào ma túy được viết bằng tình cảm của nhà văn với con trai thứ hai.
Sau các tác phẩm Nguyễn Trãi (2 tập), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Bí mật hậu cung, mới đây nhà văn Bùi Anh Tấn tiếp tục trở lại với đề tài lịch sử bằng tiểu thuyết Bảo kiếm và giai nhân, do NXB Tổng hợp TPHCM ấn hành.
Kế thừa và sáng tạo là vấn đề xưa nay đã từng được nhiều người quan tâm bàn luận. Tôi chỉ xin nói thêm đôi điều về mối quan hệ giữa kế thừa và sáng tạo trong sáng tác thi ca.
PGS-TS Nguyễn Thế Kỷ - Chủ tịch Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương, cho rằng, hoạt động lý luận văn học, nghệ thuật còn xa rời thực tiễn sáng tác, có biểu hiện xơ cứng, kém năng động, giảm sút tác dụng tích cực đối với sáng tác. Chỉ riêng trong lĩnh vực văn học, tiếng nói của các nhà phê bình được nhìn nhận là rất quan trọng đối với tác giả lẫn bạn đọc.