Nguyễn Cư Trinh, thơ văn và tư tưởng

09:40 23/12/2021

PHAN HỨA THỤY

Sau Đào Duy Từ, Nguyễn Cư Trinh là một tác giả lớn của xứ Đàng Trong vào thế kỷ XVIII, không những thế, Nguyễn Cư Trinh còn là một nhà hoạt động chính trị, quân sự có tài đã có những đóng góp cho lịch sử dân tộc.

 

Ảnh: internet

Gia phả họ Nguyễn Đăng, tức họ Nguyễn Cư Trinh, còn ghi lại rằng thủy tổ của họ này là Trịnh Cam, gốc làng Phù Lưu huyện Thiên Lộc phủ Đức Quang, nay là Can Lộc, Nghệ Tĩnh. Trịnh Cam đỗ tiến sĩ, làm đến Thượng thư bộ Binh kiêm chuyển vận sứ dưới triều Lê. Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê năm 1527, Trịnh Cam bất mãn bỏ về quê, nhà Mạc nhiều lần mời nhưng ông vẫn từ chối. Lúc Nguyễn Kim chạy ra Sầm Châu mưu đồ khôi phục cho nhà Lê thì Trịnh Cam cùng em là Trịnh Quýt đang làm giáo thụ bỏ quê vào trú ở làng Tiên Nộn thuộc huyện Phú Vang xứ Thuận Hoá. Tại đây hai anh em chiêu tập trai tráng trong vùng gây thanh thế mưu đồ diệt Mạc phò Lê. Nhưng công việc chưa thành thì Trịnh Cam chết, con Trịnh Cam là Trịnh Vĩnh Phu bỏ Tiên Nộn dời nhà về làng An Hoà thuộc huyện Hương Trà nay là ngoại thành Huế, Trịnh Vĩnh Phu đi theo chúa Nguyễn và được bổ chức hiệu sanh phủ Triệu Phong.

Từ đời thứ nhất của họ Nguyễn Đăng là Trịnh Cam đến đời thứ sáu vẫn giữ họ Trịnh, sang đời thứ bảy là Nguyễn Đăng Đệ (1) mới đổi thành họ Nguyễn. Số là vào mùa thu năm Mậu tý (1708), Đăng Đệ được cải sang văn chức, ông là người ngay thẳng, giỏi ứng đối, thạo việc văn từ, rất được Nguyễn Phúc Chu tin yêu nên được chúa Nguyễn cho đổi họ Trịnh ra họ Nguyễn là họ nhà chúa, họ Trịnh đổi thành họ Nguyễn từ đó. Hai câu đối đề năm Bính ngọ thời Thiệu Trị (1846) do cháu mười đời là Nguyễn Cư Sĩ dâng cúng hiện còn ở nhà thờ họ Nguyễn Đăng ghi rõ:

Sanh vu Hoan châu, thiên vu Ô châu, bồi thực tự tam bách niên y thủy,
Tích vi Trịnh tánh, Kim vi Nguyễn tánh, kế thừa kinh thập tứ thế hữu dư.

(Sinh ở châu Hoan, dời đến châu Ô, gầy dựng từ ba trăm năm, như cũ,
Xưa là họ Trịnh, nay là họ Nguyễn, kế thừa trãi mười bốn thế, có dư.)

Nguyễn Cư Trinh con của Nguyễn Đăng Đệ, thuộc phái Đạt Lý của họ Nguyễn Đăng(2). Sách Đại Nam Liệt truyện tin biên ghi ông là con út nhưng gia phả chép ông đứng hàng thứ 7 trong số 15 con trai và 10 con gái của Nguyễn Đăng Đệ(3).

Nguyễn Cư Trinh húy là Thịnh, tự là Nghi, hiệu là Đạm Am và Hạo Nhiên, về sau còn có hiệu là Nghi Biểu, tước Nghi Biểu hầu. Ông sinh vào giờ Dần ngày 12 tháng Giêng năm Bính Thân (1716) tại làng An Hòa, huyện Hương Trà xứ Thuận Hóa nay thuộc xã Hương Sơ ngoại thành Huế. Thủa nhỏ nổi tiếng thông minh, tương truyền mười một tuổi đã biết làm thơ.

Năm Quý Sửu (1733), Nguyễn Cư Trinh đỗ sinh đồ liền được bổ chức huấn đạo. Mùa thu năm Canh Thân (1740) ông đỗ hương tiến rồi được Nguyễn Phúc Khoát bổ làm tri phủ Triệu Phong. Cũng như cha, Nguyễn Cư Trinh là người hoạt bát, giỏi biện luận, tính khí ngay thẳng, có tài quyết đoán, giàu mưu lược nên được nhà chúa lẫn triều đình kiêng nể.

Từ sau năm Giáp Tý (1744), năm Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, mọi từ lệnh trong vương phủ đều do một tay Nguyễn Cư Trinh soạn thảo. Năm Canh Ngọ (1750), nhân một nhóm dân tộc Đá Vách ở phía Tây Quảng Ngãi nổi dậy chống lại chính quyền địa phương, Nguyễn Cư Trinh được cử làm tuần vũ Quảng Ngãi mục đích là để dẹp yên cuộc nổi dậy. Vừa nhậm chức, Nguyễn Cư Trinh một mặt phủ dụ và tổ chức lại cuộc sống cho họ, mặt khác ông viết sớ về triều nêu rõ nguyên nhân cuộc nổi dậy ấy: tình trạng đói kém của dân chúng trong lúc bọn quan lại địa phương ra sức chèn ép bóc lột, đồng thời ông đưa ra một số đề nghị cải cách. Sớ tâu lên không được chấp thuận, Nguyễn Cư Trinh gởi tiếp sớ xin từ chức, Nguyễn Phúc Khoát biết tin liền cho triệu ông về rồi bổ chức ký lục dinh Bố Chính.

Tháng 11 năm 1753, ở Chân Lạp sau khi Nặc Nguyên mượn quân Xiêm về đánh bại được Nặc ông Tha để giành ngôi rồi cho thông sứ với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài để đánh chúa Nguyễn, Nguyễn Cư Trinh liền được cử làm tham mưu điều khiển sĩ tốt năm dinh Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ (tức từ Phú Khánh đến Vĩnh Long) để phòng đối phó với Nặc Nguyên. Mười một năm ở chức vụ này, Nguyễn Cư Trinh không ngừng tìm mưu kế bảo vệ biên giới phía cực Nam Tổ quốc và ra sức kinh dinh vùng đất mới này.

Tháng 6 năm Ất Dậu (1765), Phúc Khoát chết, Phúc Thuần lên thay liền triệu Nguyễn Cư Trinh về rồi thăng lại bộ kiêm tào vận sứ, ông giữ chức này cho đến lúc mất. Nguyễn Cư Trinh mất vào giờ Tý ngày 27 tháng 5 năm Đinh Hợi (1767), thọ 52 tuổi, nhà thờ ông hiện còn ở làng An Hòa, mộ táng ở núi An Nông thuộc huyện Phú Lộc, Bình Trị Thiên. Nguyễn Phúc Thuần tặng là Tá Lý công thần đặc tấn trụ quốc kim tử vinh lộc đại phu chính trị thương khanh tham nghị, ban thụy là Văn Định. Đến thời Minh Mạng thứ 20 (1839) vua cho lục công trạng các công thần, Nguyễn Cư Trinh được truy tặng là khai quốc công thần vinh lộc đại phu hiệp biện đại học sĩ lảnh lại bộ thượng thư, cải thụy là Văn Khác, phong tước Tân minh hầu và cho tòng tự ở Thái miếu.

Là một tác giả lớn ở Đàng Trong, Nguyễn Cư Trinh sáng tác khá nhiều, tác phẩm của ông gồm cả hai loại: Chữ Hán có Đạm Am thi tập(4)Hà Tiên thập vịnh; về chữ Nôm ngoài Sãi Vãi còn có 12 bài thơ vịnh cảnh Quảng Ngãi (Quảng Ngãi thập nhị cnh). Ngày nay tác phẩm của Nguyễn Cư Trinh chưa được sưu tầm đầy đủ, số tác phẩm được lưu truyền là công sưu tầm của Lê Quý Đôn, Phạm Nguyễn Du, Phan Thanh Giản...

Xuất thân từ một gia đình có truyền thống nho học lại được đào tạo trong nền giáo dục phong kiến, Nguyễn Cư Trinh là một nhà nho chính tông. Thời đại Nguyễn Cư Trinh sống là thời suy thoái của chế độ phong kiến nhưng dẫu sao so với họ Trịnh ở Đàng Ngoài thì họ Nguyễn ở Đàng Trong vẫn còn ít nhiều hấp dẫn đối với một số nho sĩ đang độ sung sức như Nguyễn Cư Trinh.

Thế kỷ XVIII ở nước ta là giai đoạn suy đồi trầm trọng của đạo Nho, hiện tượng vừa có vua vừa có chúa ở Đàng Ngoài và Nguyễn Phúc Khoát xưng vương với ý đồ gây dựng giang sơn riêng ở Đàng Trong đã chứng minh rằng tôn ti trật tự của chế độ phong kiến theo mô hình Nho giáo đang từng bước tan rã. Tầng lớp thống trị và phần lớn trí thức cả hai miền tiêu biểu cho hạng quân tử đã mất dần tư cách và phẩm chất so với yêu cầu đặt ra của đạo Nho. Ở Đàng Trong, dù các chúa Nguyễn trong chừng mực nhất định tỏ ra uyển chuyển nhưng không vì thế mà che giấu được bộ mặt thực của mình. Thơ văn Nguyễn Cư Trinh phản ánh khá đầy đủ tình trạng xã hội ấy, phần nào còn cho thấy ông đã có nhìn ra được thực trạng và tương lai của chế độ mà ông đang sống và phục vụ.

Tác phẩm Sãi Vãi - Ảnh: giacngo.vn


Tác phẩm Sãi Vãi là tác phẩm thể hiện tập trung nhất tư tưởng của Nguyễn Cư Trinh. Trong Sãi Vãi, ông Sãi không phải là kẻ trốn đời, lại càng không phải là một tu sĩ chỉ biết tụng niệm mong đạt đến Nát bàn, Sãi ở đây thực chất là một nhà nho, tu theo Sãi là tu tề trị bình:

Thờ vua hết ngay, thờ cha hết thảo,
Một lời nói phi nhân phải đạo y là tu ngôn, một việc làm chẳng hại chẳng tham ấy là tu hạnh.
Ly nhân mà tu tánh, ly đức mà tu thân.
Tu minh đức để mà tân dân, tu t gia để mà trị quc.
y là trang hin đức, tu cho phi đạo tu.
Ngoài thì tu khoan dũ ôn nhu, trong thì tu hòa bình trung chính.
Tu cung tu kính, tu tín tu thành.
Đã phải đạo tu hành, li thêm nn phước chí.
                                        (Sãi Vãi, c;92-99)

Sãi, hay Nguyễn Cư Trinh đã phát biểu đầy đủ nhân sinh quan của đạo Nho, nhưng với ông chí hướng và lòng hăm hở thực hiện lý tưởng không nhất thiết là để tỏ lòng trung với một triều đại, càng không phải để trả nợ áo cơm mà là vì sự nghiệp xây dựng đất nước. Cho nên với Nguyễn Cư Trinh chỗ nào cần là đến, việc gì thiết yếu là làm, không so hơn tính thiệt vì quyền lợi và địa vị của bản thản. Tất nhiên Nguyễn Cư Trinh vẫn coi cuộc nổi dậy của dân Đá Vách là nổi lon, nhưng khi cất quan đi dẹp thì thái độ của ông không phải như một viên tướng đem quân đi tiễu trừ một bọn nghịch tặc, ngược lại một mặt ông cố tìm hiểu nguyên nhân và nguyện vọng của nhân dân, mặt khác ông cho tăng gia sản xuất làm kế lâu dài để thu phục họ, điều đó đã biểu lộ được tình cảm và tài năng của một ông quan biết yêu dân yêu nước. Sau khi vỗ yên, Nguyễn Cư Trinh không tự hào kể công như đám tướng tá dưới trướng chúa Trịnh thường làm mà ông cấp thời gởi sớ về triều kể hết mọi tệ lậu của xã hội, đồng thời kiến nghị một phương thức cai trị nhằm xây dựng cuộc sống an cư lạc nghiệp cho nhân dân. Là kẻ cầm quân ở ngoài biên không phải ai cũng nói lên được mặt trái phủ phàng của chế độ, viết được những câu cương trực như ông: Dân là gc của nước, gc không vững thì nước không yên, thường ngày không lo đem ân huệ để giữ ly lòng dân, đến khi hữu sự còn biết dựa vào đâu nữa (5). Trong tờ sớ ấy, Nguyễn Cư Trinh nhấn mạnh đến chính sách thuế khoá nặng nề và bất công, ông còn khuyên chúa rằng: Phải làm yên dân, chớ làm dân động, vì làm động dân thì nước d loạn, yên dân nước mới dễ trị (6).

Với cách nhìn nhận như vậy, Nguyễn Cư Trinh đã mỉa mai một cách kín đáo bọn ăn không ngồi rồi nơi cung đình:

Thùy niệm thiên nhai minh võ lược,
Kinh hoa tòng thử chẩm di cao.

(Mấy ai biết nhờ võ lược lẫy lừng nơi chân trời,
Kinh đô vì vậy mà được gối cao yên giấc).
                              (Bài hoạ Giang Thành dạ cổ)

Hay:

V tướng ô y dường thượng khách,
Hoàn tương lục lục tiếu thiên nha.

(Nghĩ tới lũ chim yến trên nhà cao kia,
Lại còn dám coi thường kẻ góc bể chân trời).
                              (Bài hoạ Châu Nham lạc lộ)

Tất nhiên làm sao Nguyễn Cư Trinh hiểu được bản chất của chế độ phong kiến chúa Nguyễn thời ấy, nhưng thực trạng một xã hội mà ở triều đường thì bọn quyền thần hống hách, bên ngoài thì dân chúng đói rách lầm than, chính điều đó thôi thúc ông hành động và hướng hành động của ông vào công cuộc bảo vệ và mở mang đất nước.

Bệnh tht tình của nhân vật Sãi trong Sãi Vãi càng thể hiện rõ nét tư tưởng của Nguyễn Cư Trinh. Vui, thương, giận, yêu, ghét, muốn, sợ, thực ra là bảy thứ tình cảm mà nhà nho thường hay nói tới, nhưng qua lời Sãi đó là một sự phân biệt rạch ròi giữa chân và ngụy, giữa chính và gian tà, đó là lập trường phân minh của một con người chân chính, từng trải và yêu đời.

Một điều thú vị ở Sãi Vãi là một tu sĩ đạo Phật, Sãi lại có tư tưởng chống Phật, ta hãy nghe Sãi lý luận:

Du những Thích Ca tu lại, cùng với Đạt Ma tu qua.
Tu cho tinh chuyên là La thập cưu ma, tu cho kh não là Văn Thù bồ tát.
y là người ngoại quc, chọn theo thói Trung Hoa.
Chê s đời phú quý vinh hoa, muốn vui thú thanh nhàn dật lạc.

Vào những thế kỷ XVII, XVIII ở Đàng Trong không hiếm những kẻ lợi dụng sự mê tín của giai cấp thống trị, của tín ngưỡng dân gian, mượn áo nhà tu làm điều càn bậy.

Mặt khác vào lúc này ở Đàng Trong đang diễn ra một cuộc xáo trộn về tư tưởng rất sôi động gây ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống nhân dân. Sự thâm nhập của Thiên Chúa Giáo vào miền đất mới này càng mạnh, nhất là sau khi Nguyễn Phúc Chu chết. Nhưng từ sau năm 1742, năm mà giáo hoàng Benoit XIV ban hành lệnh cấm tín đồ Thiên chúa giáo ở phương Đông thờ cúng tổ tiên đã gây nên dư luận sôi nổi trong dân chúng, từ đó dẫn đến mâu thuẫn giữa người trong đạo và người ngoại đạo, giữa Thiên chúa giáo với những tôn giáo khác, bọn cơ hội lợi dụng thời cơ tuyên truyền gây hoang mang khiến nhân dân vốn lo âu càng lo âu hơn, tạo nên một cơn sốt chính trị. Để đối phó với tình hình, Nguyễn Cư Trinh đã thay mặt quần thn viết biểu khuyên Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, với chúa Nguyễn thì đó là cái gượng dậy của một con bệnh đang hồi thập tử nhất sinh, nhưng với Nguyễn Cư Trinh thì ông tin đây là cơ hội giúp ông có điều kiện thực thi lý tưởng của mình. Nguyễn Cư Trinh tiêu biểu cho lớp nho sĩ chân chính còn rất ít nhiều tin tưởng vào chế độ phong kiến, bằng chứng là ông rất hăng say trong việc bảo vệ biên cương, mở mang bờ cõi, không ngại lặn lội nơi rừng sâu nước độc, có lúc gieo neo chốn biên ải nhưng bao giờ ông cũng tin tưởng công cuộc kinh dinh sẽ thành công, ông sung sướng và tự hào về kết quả mà mình đã đạt được trong những câu thơ sảng khoái:

Cánh vô tô thuế hựu nhàn sự,
Thái bán nhân xưng cận bách linh.

(Không nộp thuế lại được thong thả,
Hơn nửa số người ở đây tuổi thọ đã gần trăm)
                              (Bài hoạ Lộc trĩ thôn cư)

Tịch nhưỡng cùng binh khả tịch thinh,
Tử tôn vô hoạn đot mao đình.

(Nơi hẻo lánh không còn nạn đao binh,
Con cháu không sợ bị cướp mất túp lều này nữa)
                              (Bài trên)

Là một người thành đạt nhưng không phải Nguyễn Cư Trinh lúc nào cũng mãn nguyện, giai cấp thống trị không đánh giá đúng mức những đóng góp của ông, thậm chí còn lợi dụng công sức của ông, bọn tiểu tâm thường hay đố kỵ, vì vậy hơn mười năm lăn lộn ngoài biên viễn lắm lúc Nguyễn Cư Trinh thấy chán chường:

Quan tái thê phong xuy quyện mã,
Trường An phiến nguyệt dữ cô thn.

(Nơi quan tái gió lạnh xoáy vào đàn ngựa mệt mỏi,
Mảnh trăng chốn kinh kỳ vẫn dõi theo bước kẻ cô đơn)
                                        (Tái thượng ngầm)

Nơi biên cương xa xôi chính ông và quân dân chiến đấu từng giờ để giữ yên tổ quốc, kinh dinh làm giàu cho đất nước trong lúc một bọn người cứ sống nhỡn nhơ trong nhung lụa, thật không giải thích được, trong bài Long H đại phong k hoài ông thốt lên nỗi bất mãn đau đời:

Thế sự vinh khô nại nhược hà?

(Việc đời tươi héo biết làm sao?)

đó cũng là cái nghịch lý cố hữu của kẻ tài năng trong chế độ phong kiến. Trường hợp Nguyễn Cư Trinh chưa phải là bi kịch, nhưng rõ ràng chế độ phong kiến chúa Nguyễn không dung nạp nổi ông, đó không phải là một chế độ lý tưởng như ông tưởng, dần dần ông đã nhìn ra được sự thối nát của nó, nên thảng hoặc ông viết vài câu thơ chua chát bi quan cũng là điều dễ hiểu.

Là một nhà nho, Nguyễn Cư Trinh cũng thường hay nhắc đến chữ Trung, nhưng cái trung của Nguyễn Cư Trinh không nhất thiết là trung với một triều đại, với một ông vua, trung của ông chính là trung với nước, trên cơ sở đó ông thẳng thắn chỉ rõ chỗ đắc thất trong chính sách cai trị của chúa Nguyễn, vạch ra những tệ lậu của chế độ mà về sau Lê Quý Đôn phải khen rằng bàn nói không gì là không mưu ngay lẽ phải (7), ý kiến của nhà bác học họ Lê thật đã đánh giá chính xác về tư tưởng và những đóng góp của Nguyễn Cư Trinh.

Do thành phần xuất thân, do hoàn cảnh xã hội, Nguyễn Cư Trinh khó mà thoát được những hạn chế khách quan, nhưng phải rằng ông là một nhà nho tiến bộ, tư tưởng chủ đạo trong thơ văn và những hoạt động chính trị của ông là tư tưởng yêu nước và nhân đạo. Nguyễn Cư Trinh xứng đáng là người kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và hào khí của bao trí thức yêu nước đi trước, đó cũng là cơ sở để khẳng định vị trí của Nguyễn Cư Trinh trong lịch sử và văn học.

P.H.T
(TCSH50/07&8-1992)

----------------------------
Chú thích:
(1) Nguyễn Đăng Đệ (1669-1727) húy là Viễn, hiệu Hòa Đức, ông đỗ sinh đồ rồi hương tiến, trước làm tri huyện Minh Linh sau thăng văn chức thực thụ ký lục ở chính Dinh cho đến lúc mất.
(2) Họ Nguyễn Đăng có 3 phái: Đôn Thành, Đạt Lý (do lấy tên hiệu của Trịnh Sử và Trịnh Phú đời thứ 6) và Thuận Đức (tên hiệu của Nguyễn Đăng Trị đời thứ 7).
(3) Nguyễn Đăng Đệ có hai vợ: Nguyễn Thị Luân và Ngô Thị Liên, hai bà sinh được 25 người con, chưa rõ Nguyễn Cư Trinh con của bà nào, có thể ông là con út của bà chính chăng.
(4) Trong gia phổ họ Nguyễn Đăng, phần tiểu truyện Nguyễn Cư Trinh, ngoài Đạm Am thi tập còn ghi thêm một tập nữa là Hạo Nhiên đương văn tập, tập này chưa thấy sách nào nói tới.
(5) (6) Đại Nam thực lục tiền biên, Q.10, tr.17b -18b.
(7) Lê Quý Đôn, Ph biên tạp lục, Nxb Khoa học, Hà Nội, 1984, trang 266.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.