Người từng kéo cao cờ đỏ sao vàng trên Kỳ đài Huế

15:34 01/09/2020

Kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2020) và Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2020)   

MAI AN NGUYỄN ANH TUẤN

Ảnh: internet

Khi mới 25 tuổi, Đặng Văn Việt từng hạ cờ quẻ ly của triều đình nhà Nguyễn thời vua Bảo Đại và kéo cao cờ đỏ sao vàng trên kỳ đài Huế. 75 năm đã trôi qua, sau bao biến động thời cuộc và bao trải nghiệm bản thân, từng “nếm mật nằm gai” ở các chiến trường trong thời kỳ đánh Pháp và bận rộn tại các công sở, sự kiện đó vẫn còn sống động trong tâm hồn ông tới từng chi tiết. Ngồi trên tàu hỏa xuôi vào Huế cùng đoàn làm phim “Người lính già viết lịch sử chống xâm lược”, ông cứ nhìn ra ngoài cửa sổ một lúc; dường không kìm lòng được, ông lại quay người kể cho chúng tôi nghe những chuyện từng xảy ra ở đất Thần Kinh.

Câu chuyện bắt đầu từ cụ thân sinh ông - phó bảng Đặng Văn Hướng. Thời đó, cụ Hướng được Chính phủ Trần Trọng Kim mời tham gia công việc của chính quyền. Năm 1942 khi cụ làm tuần phủ Hà Tĩnh, “cậu ấm” Đặng Văn Việt đậu tú tài toàn phần ở trường Khải Định, sau đó thi đậu Trường Đại học Y khoa Đông Dương ở Hà Nội. Tháng 3 đến tháng 8/1945, khi cụ Hướng làm tổng đốc Nghệ An thì ông đã là sinh viên tham gia phong trào cứu quốc tại Hà Nội. Vì cụ Hướng có công giúp chuyển giao chính quyền cho cách mạng, nên vào năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ra làm Bộ trưởng Không bộ, phụ trách ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh cho đến năm 1953. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Trường Đại học Y khoa Đông Dương đóng cửa, chàng trai Đặng Văn Việt cùng 42 sinh viên miền Trung quay về quê. Biết Nhật sẽ đảo chính Pháp, nên luật sư Phan Anh (lúc đó là một trong 16 thành viên nội các của Chính phủ Trần Trọng Kim) và GS. Tạ Quang Bửu (cố vấn đặc vụ ủy viên Bộ Thanh niên) thành lập Trường Thanh niên tiền tuyến Huế thu hút ngay số sinh viên miền Trung này. GS. Tạ Quang Bửu vốn là thầy giáo cũ đã viết thư khuyên ông Việt và bạn học gia nhập Trường Thanh niên tiền tuyến Huế.

Trước tấm bia ghi lại di tích lịch sử về Trường Thanh niên tiền tuyến Huế, ông Việt đã say sưa kể lại tỉ mỉ về những hoạt động của tổ Việt Minh 5 người của trường mà ông là một trong số đó. Đây là thời kỳ ông Việt và các sinh viên Việt Minh thường xuyên liên lạc với Ủy ban kháng chiến Trung bộ ở Huế. Sáng 20/8/1945, ông Việt được Tổ chức giao cho một lá cờ Tổ quốc rất lớn, với nhiệm vụ treo lên cột cờ lớn trước cửa Ngọ Môn, thay cho cờ quẻ ly, vào đúng sáng 21/8. Và rạng sáng 21/8, ông Việt và ông Nguyễn Thế Lương (sau này là Thiếu tướng Cao Pha) đã “đóng” bộ ghệt bóng lộn, đầu đội mũ calô, chân đi giày da tựa như hai ngự lâm quân cùng đi thực hiện sứ mệnh vinh quang!

Trước áp lực và khí thế cách mạng, tiểu đội bảo vệ Kỳ đài gồm thầy đội và sáu lính dõng đầy đủ súng ống đã giúp hạ cờ quẻ ly để hai chàng ngự lâm quân thay thế cờ đỏ sao vàng. Thay cờ xong, đội bảo vệ xếp hàng ngang, và ông Việt đứng hô: “Kéo cờ... Chào!” Lính bồng súng, còn hai chàng sinh viên đưa tay chào kiểu nhà binh. Lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc từ từ được kéo lên cao. Họ đã nghe những tiếng hô vang khắp nơi: “Cờ đỏ sao vàng! Hoan hô cách mạng đã về. Dân ta độc lập, tự do rồi!” Đúng ba hôm sau, ngày 23/8/1945, Cách mạng Tháng Tám đã diễn ra tại Huế, trên cửa Ngọ Môn, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị và trao ấn tín, kiếm báu cho chính quyền Cách mạng. Cũng trong hôm đó, ông Việt được ông đội kể lại câu chuyện có liên quan tới hai nhân vật lịch sử: Lúc cờ được kéo lên, 120 mũi súng của Đội cận vệ Hoàng gia ở Ngọ Môn đã chĩa thẳng vào hai sinh viên, chỉ đợi lệnh nhà vua để bóp cò. Nhà vua trao đổi qua với hoàng hậu Nam Phương rồi hô to: “Chớ! Không được bắn.” Lúc đó, vua Bảo Đại đã bày tỏ lòng yêu nước của ông - người khi đọc chiếu thoái vị đã nhấn mạnh: Làm dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ; còn hoàng hậu Nam Phương khi khuyên can nhà vua không đối kháng cách mạng, đã thể hiện là một phụ nữ Việt Nam thông minh, sáng suốt, nhân hậu.

Cũng dưới chân Kỳ đài Huế với ngọn cờ đỏ sao vàng phần phật bay suốt từ tháng Tám lịch sử ấy cho đến nay, ông Việt đã xúc động và trân trọng kể lại bao kỷ niệm về những cuộc gặp gỡ của mình thời thanh niên với các cấp trên - đặc biệt là với luật sư Phan Anh, Bộ trưởng Thanh niên của Chính phủ Trần Trọng Kim, sau là Bộ trưởng Quốc phòng của Chính quyền mới (1946), và giúp chúng tôi sáng tỏ thêm cái điều mà nhà sử học Dương Trung Quốc đã nhận định khái quát: “Trường Thanh niên tiền tuyến Huế là một bộ phận tiền thân của phong trào cách mạng tại Huế. Sinh viên của trường đều được công nhận là cán bộ tiền khởi nghĩa. Hiện hữu của trường này là một hiện tượng đặc biệt của cách mạng Việt Nam; qua đó làm sáng tỏ một vấn đề xã hội sâu sắc: khi người trí thức giác ngộ cách mạng thì họ sẽ trở thành chủ thể lịch sử triệt để cách mạng hơn ai hết…”*. Cũng từ lòng yêu nước và tinh thần quả cảm hun đúc suốt thời thanh xuân sôi nổi, cộng với những kinh nghiệm quân sự học được từ trường Thanh niên tiền tuyến Huế, khi bước vào cuộc chiến tranh Nhân dân Trường kỳ kháng Pháp xâm lược, ông Việt đã trở thành một vị chỉ huy quân sự tài ba khiến các tướng tá thua trận bên đối phương cũng phải nghiêng mình kính nể.

Năm 2015, sau khi vào Huế cùng một đoàn làm phim của Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện chương trình tái hiện lại sự kiện treo cờ trên với tư cách là cố vấn nội dung, trở về Hà Nội ông đã viết cuốn sách “Hạ cờ triều đình Huế, giương cao cờ đỏ sao vàng - sự kiện vĩnh hằng”. Tới lúc đó, ông đã có 17 tác phẩm (trong đó, cuốn Đường số 4 rực lửa đoạt giải nhất Liên hiệp Việt Nam năm 2000, được xếp hàng đầu trong những Hồi ký thế giới do đài BBC công bố tại Paris năm 2005), và đang thai nghén công trình của đời người: “Việt Nam - Bản hùng ca giữ nước”. Trong công trình này, chắc chắn phải có những cảm hứng lịch sử và kinh nghiệm hoạt động quân sự bí mật tại Trường Thanh niên tiền tuyến Huế.

Đêm thanh bình êm ả, ông Việt lần đầu tiên được nghe ca Huế trên thuyền trôi dọc sông Hương. Cảm xúc do hồi ức ban ngày chưa tan hết trong tâm hồn ông như chợt hòa quyện với lời ca đằm thắm bay bổng của các cô gái Huế trẻ duyên dáng. Chất mộng mơ của Huế Đẹp và Thơ sau nhiều năm lặng im tiếng súng như càng làm ngời lên cái bi tráng, anh dũng của một thời chiến tranh mà anh thanh niên Đặng Văn Việt đã trưởng thành từ đó, đã xếp bút nghiên lên đường cùng hành trình gian khổ vĩ đại của cả Dân tộc… Khi một cô gái đưa cho ông chiếc đèn hoa đăng giấy để thả xuống sông đêm, mắt ông rưng rưng lệ trong ánh nến bập bùng; ông bước tới mạn thuyền rồng, trao lại cho một cô gái đi cùng đoàn thả hộ đèn…

Đoàn đưa ông Việt rời Huế trong một sáng sớm, trời se lạnh. Trên sân ga Huế vắng vẻ đợi tàu đến, có lúc ông ngồi một mình yên lặng trên ghế băng nhập nhoạng ánh đèn. Thoạt nhìn ông, nếu không biết, tưởng đâu là hình ảnh của một nhân vật trong vở kịch phi lý “En attendant Godot” (Chờ đợi Godot) của nhà văn đoạt giải Nobel Văn học Samuel Beckett… Nhưng, phải chăng, đó cũng là lúc người cựu chiến binh đang sống trong xúc cảm thơ ca chan chứa về một vùng đất lịch sử, mà một luật gia kiêm thi sĩ đi trong đoàn đã thay mặt nói hộ cả đoàn:

Ngự Bình sáng ánh mây sa
Hương Giang ngọt khúc đàn ca xuôi dòng...


M.A.N.A.T
(TCSH378/08-2020)

................................................

(*)Dẫn theo: Hạ cờ triều đình Huế, giương cao cờ đỏ sao vàng - sự kiện vĩnh hằng. Đặng Văn Việt (Chủ biên) - Nxb. Hội Nhà Văn, 2015.  




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.

  • TRẦN NGUYÊN

    Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.

  • PHẠM HỮU THU
           Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12

    “Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).

  • TRẦN THỊ KIÊN TRINH

    Mùa hè năm nay tôi có dịp trở lại Sài Gòn. Thành phố với bao đổi thay nhưng tôi chưa kịp nhận thấy hết bởi thời gian tôi lưu lại Sài Gòn quá ngắn ngủi.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cũng lạ cho cái xứ Huế của tôi, cái chi cũng khác hơn thiên hạ. Nắng thì nắng cháy da phỏng trán, mưa thì mưa thúi đất thúi đai, dầm dề không dứt. Vài ba năm lại một trận lụt, trận bão to đùng.

  • BÙI KIM CHI

    “Tháng 7 nước nhảy lên bờ”. Mà lên bờ thiệt. Mưa. Mưa. Mưa… kéo dài lê thê. Lúc đầu nhỏ sau lớn dần. Nặng hạt. Xối xả. Cây cối trong vườn ngả nghiêng theo mưa và gió. Cây Lựu trước sân nhà tôi tơi tả. Trời tối dần. Mưa càng lúc càng to. Ào ào như thác đổ. Mưa suốt đêm. Sấm đất cuốn vào mưa. Ầm ầm. Ào ào. Âm thanh rộn rã…

  • Khi những giọt mưa ngâu tháng bảy bất ngờ trở về, làm xao động cả bầu trời mệt mỏi đang chìm lặng trong lòng sông Hương, Huế bỗng rùng mình chợt tỉnh cơn mê mùa hạ. Đó cũng là thời khắc mùa Vu lan đang về trên đất trời cố đô.

  • Hồi còn học ở Trường Đại học Sư phạm Huế, tôi có hai người bạn, hợp thành một nhóm, thường uống rượu với nhau khi vui cũng như khi buồn.

  • LTS: Tác giả của câu chuyện dưới đây, sinh ra và lớn lên ở làng quê Triều Sơn Nam, xã Hương Vinh, Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Anh sinh ra trong sự oan nghiệt khủng khiếp của cuộc sống khi buổi sáng mẹ anh quằn quại nghe tin đau xé mất chồng, buổi chiều mẹ đón nhận tiếng khóc chào đời của anh.

  • NGUYỄN LỆ BA

    Gia phả họ Nguyễn Quang ghi chép, tổ tiên chúng tôi là những người đã ra đi từ đất Huế. Thuở dong buồm về phương Nam đi tìm đất mới, những lưu dân đầu tiên đến dựng làng lập ấp trên vùng sông nước quê tôi chỉ vỏn vẹn vài dòng họ với đôi ba chục con người.

  • BÙI KIM CHI

    Đã có một lần tôi được trở về thăm Huế vào một mùa trăng. Cảnh vật thiên nhiên trời ban riêng cho Huế làm Huế duyên dáng và đẹp lạ lùng vào những đêm trăng. Trăng Huế vì thế mà có nét đẹp rất riêng, là lạ, duyên dáng, lộng lẫy và quyến rũ trong phong cảnh vừa thơ, vừa duyên và lãng mạn của trời đất Huế về đêm.

  • NHÂN KỶ NIỆM 50 NĂM BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VỊ PHÁP THIÊU THÂN

    NGUYỄN BỘI NHIÊN

  • Một nam sinh như tôi lại học trường nữ trung học Đồng Khánh (trường THPT Hai Bà Trưng hiện nay), có thể một số người cho đó là chuyện lạ đời. Nhưng đấy lại là sự thật 100%! Tuy tôi chỉ học ở trường Đồng Khánh một năm lớp năm bậc tiểu học (bây giờ là lớp 1) vào khoảng những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước. Nhưng không hiểu tại sao tôi lại còn nhớ nhiều những kỷ niệm về năm học đầu đời ấy mãi tới tận bây giờ.

  • TRIỆU BÔN
             Hồi ký

    Mùa mưa năm 1968 ở mặt trận đường Chín - Khe Sanh, trung đoàn 246 chúng tôi được gọi đùa là trung đoàn hai bốn đói. Ngày ngày chúng tôi sống bằng ba nguồn chính: thịt thú rừng, rau môn thục, và đỗ xanh.

  • NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi niềm đau đáu về quê hương, nơi mình được sinh ra và chắt chiu nuôi dưỡng trong từng hạt cát, từng trận mưa dầm dề thúi trời thúi đất hay nắng lửa trên cồn khô cát cháy, mà những con người ở đây sẵn mang một tấm lòng lồng lộng gió trời trải đi khắp muôn phương...

  • BÙI KIM CHI

    Tôi đang đứng ở đây. Bến xe đò Đông Ba của thế kỷ trước. Bùi ngùi. Xúc động. Bến xe đã không còn. Thật buồn khi nơi này đã vắng bóng những chiếc xe đò dân dã, thân thương thuở ấy cùng những tà áo trắng học trò dung dị với giọng Huế trong trẻo ơi ới gọi nhau lên xe kẻo trễ giờ học.

  • NGUYỄN VĂN UÔNG
                         Tùy bút

    Tuổi càng cao càng có nhiều nỗi nhớ vu vơ. Tôi đang trong tình trạng đó. Nhớ cồn cào đến xao xuyến là mỗi dịp xuân về: Nhớ Tết quê tôi. Nhớ tuổi thơ tôi và nhiều nỗi nhớ khác nữa.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Thuở nhỏ, tôi thường trốn ngủ trưa đi nghe hát vè. Ở Huế lúc ấy gọi là nói vè, như theo tôi phải gọi là hát vè thì đúng hơn, bởi người hát có bài có bản, có giai điệu, trầm bổng, có cả nhạc cụ.

  • HỒ XUÂN MÃN
    (Nguyên UVTƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế)

    Năm 1973, để chuẩn bị cho ký kết hiệp định Paris, Khu ủy và Quân khu Trị Thiên - Huế chủ trương tổ chức các lực lượng (bao gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) tổ chức đánh chiếm các căn cứ và phân chi khu địch để giành đất, nắm dân, cắm cờ giành quyền làm chủ.

  • TRẦN THỊ NHƯ MÂN

    Tôi sinh ra trong gia đình quan lại, đã mấy đời làm quan với triều đình Huế(1). Khi tôi lớn lên thì chế độ cai trị của thực dân Pháp đã bước vào giai đoạn ổn định sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Chiếc ngai vàng của nhà Nguyễn từ nay trở đi chắc không còn phải chịu những cơn sóng gió đáng kể chi nữa.