Người nghệ sỹ không biết mệt mỏi

15:10 21/03/2022


YÊN CHÂU

Nhà thơ Hải Bằng - Ảnh: tư liệu

Cứ nhìn một ông già 62 tuổi, tóc hoa râm, dáng người gầy gò, xương xẩu, ngồi bó gối trên chiếc ghế tựa, đợi từng giọt cà phê rơi tí tách, thỉnh thoảng lại khúc khắc ho, tiếp sau đó là những nhịp thở mệt mỏi, thật không ai dám nghĩ rằng đó là nghệ sỹ Hải Bằng làm việc miệt mài quên tuổi tác, ý chí lướt tràn cả trên sức lực của mình.

Trước tiên anh là một nhà thơ. Tuổi trẻ đầy khát vọng của anh gặp ngọn lửa kháng chiến trường kỳ. Anh hòa nhập ngay vào đoàn Vệ quốc quân, thuộc trung đoàn 101 mang tên trung đoàn Trần Cao Vân, tên của một nhà chí sỹ yêu nước thời Cần Vương bị Tây chém đầu một lúc với Thái Phiên. Hải Bằng cùng đồng đội vào từng chiến dịch. Anh viết báo, làm thơ. Bài thơ "Người nữ cứu thương" của anh đã nổi tiếng một thời. Sang thời chống Mỹ, bài "Cồn cỏ" được tặng giải cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ. Càng có tuổi anh càng say thơ, luôn luôn tìm tòi phát hiện. Hầu như không ngày nào anh không có những câu thơ mới, lấp lánh. Chỉ xin lấy một ví dụ thôi, riêng về đề tài mưa ở Huế, Hải Bằng đã làm đúng một trăm bài thơ tứ tuyệt. Mỗi bài một cảnh sắc, một tâm trạng, một thi hứng riêng. Anh tập hợp lại, in riêng thành tập thơ "Mưa Huế". Không tìm tòi say đắm không thể sáng tạo như thế được.

Đặc biệt anh có tài ứng tác. Tôi nhớ lần ấy Hội nhà văn tổ chức cho anh em văn nghệ sỹ miền Trung đi thực tế. Bữa ở Đà Nẵng, anh Nguyễn Chí Trung cầm con cá mú trên tay, lấy ngay cá mú làm đề tài, thách Hải Bằng làm thơ. Chỉ trong tích tắc, mắt Hải Bằng đang âm u bỗng sáng bừng lên, tôi biết anh đã ứng tác được bài thơ tức thì. Ngay trong câu đầu, cách chơi chữ của anh đã làm tất cả anh em trong đoàn cười sảng khoái:

"Cá mú hay là cú má em"...

Thơ Hải Bằng tôi thích mảng thơ tâm trạng của anh. Phùng Quán có làm tặng Hải Bằng một bài thơ, bài "Chim biển". Có thể nói một bài thơ rất Hải Bằng. Hai câu Hải Bằng rất tâm đắc, tả con chim biển trong cảnh bão tố, nó nấp tránh gió trong bụi xương rồng trên cát:

"Thò ra e gió cuốn
Thụt vào ngại gai đâm".

Đụng vào tâm trạng, thơ Hải Bằng bao giờ cũng bâng khuâng, bâng khuâng của một nỗi niềm day dứt, thấm đượm trong đó một cái gì xót xa, nhưng vẫn găm chặt, nén chịu.

Anh viết:

"Theo cô Tấm đi hội làng giục giã
Bắt được chiếc hài mà chẳng dám cầm tay"...

Câu thơ như xuất thần. Không ồn ào mà thấm đậm. Giọng không lẫn vào đâu được. Ở một bài khác, anh cũng viết:

"Con chim tha rác trên cành phượng
Xây tổ hay là bỏ tổ đi?”

Gần đây, hiểu anh, nên đọc thơ là thấy Hải Bằng ngay lập tức. Hải Bằng thích câu cá. Có một thời cả năm trời Hải Bằng kiếm sống bằng nghề câu cá ở Quảng Bình, bây giờ đi đâu, trong túi anh cũng có bộ đồ câu. Anh bảo: "Cái thú nhất của câu cá là kiếm được cá, song quan trọng lại ở chỗ có thời gian để suy nghĩ". Có những câu thơ đắng nghét của anh bắt rễ từ mặt nước ao hồ ấy:

"Con muỗi vo ve từ mặt nước ao nhà
Không dám nhận mình là bọ gậy".

Nét rất đáng yêu trong thơ Hải Bằng là sự hóm hỉnh, tinh tế. Bao giờ anh cũng tìm được cái để cười cho cuộc sống thường ngày không mất đi vẻ hồn nhiên.

Đây là anh làm thơ tự trào, khi răng đã gẫy hết, đến bệnh viện lắp bộ răng giả:

"Nụ cười tươi nói răng nhà nước
Con mắt âm thầm lệ cá nhân”.

Sau gương mắt lặng lẽ, âm thầm của anh là một Hải Bằng sôi sục, lúc nào cũng như có lửa cháy trong tim. Phải chăng vì vậy mà anh rất dễ xúc động, và tâm hồn thơ nhạy cảm. Do đó nguồn thơ của anh ngày càng chảy xiết. Trong vòng năm năm nay, Hải Bằng cho in liên tục bốn tập thơ: "Hát về ngọn lửa", "Trăng đợi trước thềm", "Mưa Huế", "Thơ tình Hải Bằng". Đó là thơ đã trình làng. Số thơ và trường ca còn nằm trong hòm lưu trữ của anh nếu được in hết, phải được cả chục tập nữa.

Phải được chứng kiến Hải Bằng trình diễn thơ trên diễn đàn và đọc thơ cho quần chúng nghe mới thấy hết chất lửa trong trái tim nhà thơ ngùn ngụt đến như thế nào.

Anh lấy ngay hồn thơ của mình làm tuyên ngôn:

"Rồi đây tất cả là thi sỹ
Nhìn lại tay mình chỉ có thơ”.

Hải Bằng không chỉ làm thơ. Bên cạnh con mắt nghệ sỹ tinh tường, anh có đôi bàn tay tài hoa. Một Hải Bằng tạo hình bằng rễ cây và tranh vân gỗ của anh cũng nổi tiếng không kém gì Hải Bằng nhà thơ.

Một đống rễ cây cong queo, sần sùi, với người khác chỉ được một việc ấn vào bếp nhóm lửa, còn với Hải Bằng, anh cầm từng rễ cây lên, đặt nhìn nghiêng, đặt nhìn dọc, ngắm ngắm, nghía nghía, cắt đầu rễ này, chắp mẩu rễ kia, chỉ một chốc lát, đống rễ cây vô dụng ấy biến thành "con chó sủa trăng", "gấu tương tư", “vũ điệu của bầy cò"... Phải nói đúng rằng Hải Bằng đã phù phép thổi tâm hồn nghệ sỹ của mình vào những vật vô tri làm cho nó sinh động hẳn lên, hòa nhập ngay vào cuộc đời. Nhìn lên tường nhà anh, thấy cả một vườn bách thú phong phú và đa dạng. Con nào cũng có sức sống riêng của mình. Hải Bằng đóng hộp, đóng chuồng gửi vườn thú của ông sang Pa-ri được bà con Việt Kiều bên ấy hoan nghênh và đón tiếp nồng nhiệt.

Hai bàn tay anh đặt vỏ cây lên nền gỗ, lập tức ta có ngay một tấm phù điêu. Phù điêu văn nhân của anh, không cần giới thiệu một lời, khách nhận ngay ra, đó là phù điêu nhà thơ Xuân Hoàng, nhà văn Nguyễn Tuân, nhạc sỹ Văn Cao... Hải Bằng tặng phù điêu cho chính tác giả. Đến sành sỏi như Nguyễn Tuân cũng phải giật mình mến mộ một tài năng tạo hình. Nguyễn đặt nó nơi trang trọng trong nhà làm kỷ niệm. Sâu lắng nhất có lẽ là phù điêu thiếu nữ Huế, mái tóc đen dài tha thướt, áo dài trắng tinh khôi, một chiếc nón trắng e lệ, đó chính là mảnh gỗ anh tình cờ nhặt được và đặt đúng vị trí cho nó. Khi chúng tôi đến thăm, gặp "thiếu nữ Huế", ai nấy đều bàng hoàng, cùng thốt lên câu thơ của Hàn Mặc Tử:

“Áo em trắng quá nhìn không ra”.

Riêng tranh vân gỗ của anh, khách nước ngoài rất thích. Đó là những tấm gỗ có vân tự nhiên, nhưng chỉ có con mắt của anh mới thấy được. Đưa về, anh cho đánh bóng và quét dầu bóng lên, thế là một bức tranh "như tranh sơn mài" được mọi người công nhận. Tính trừu tượng của những bức tranh này, làm cho tấm gỗ trở nên có giá.

Về hội họa, chúng tôi tưởng Hải Bằng chỉ có tài vẽ truyền thần. Đặc biệt là bạn bè cũ, từ thời chín năm, không còn một tấm ảnh trong tay, Hải Bằng vẽ từ trong trí nhớ, được bạn bè công nhận là rất giống, như trường hợp Hồ Vi chẳng hạn. Vẽ xong, Hải Bằng đưa bức vẽ cho ông Nguyễn Khắc Thứ, người bạn cùng thời thuở chín năm, Nguyễn Khắc Thứ thảng thốt kêu lên "Hồ Vi!". Có được một hình ảnh của Hồ Vi lúc này thật đáng quý biết chừng nào. Rất cám ơn Hải Bằng.

Song, rất lạ, trong vòng hai năm nay, Hải Bằng xuất hiện sừng sững giữa Huế như một họa sỹ vẽ tranh phong cảnh có tài, dù anh mới chỉ vẽ thuốc nước, nhưng tranh thuốc nước của anh rất giống tranh sơn dầu.

Cách đây một tháng, đến nhà anh, tôi đếm được 16 bức tranh lồng kính, còn 15 bức trần không có kính để lồng. Nay đến thăm anh, Hải Bằng khoe thêm 6 bức mới vẽ. Phải khẳng định rằng các bức sau càng đẹp hơn các bức trước. "Bờ lau”, "Ánh sáng phía bên kia", "Bến vắng", "Đường ra sông" đang là những bức được bạn bè khen là đẹp nhất, rất xứng đáng với hội họa. Đúng với tính cách trầm lắng của anh, gam màu xanh xám của Hải Bằng là thành công nhất, màu sắc không có góc cạnh, không chói lòa kia, xanh xám thôi, nhưng thăm thẳm như hồn anh.

Thơ, tạo hình, và cả những bức tranh của Hải Bằng xuất hiện, đột ngột làm chúng tôi bất ngờ; Không hiểu anh làm việc vào lúc nào mà các tác phẩm cứ ra đời, trình làng đều đặn đến thế.

Nói đến Hải Bằng, anh em chúng tôi thường nhắc nhau: "Phải đắm say, sáng tạo, sáng tạo không mệt mỏi như Hải Bằng".

Sức làm việc của anh thật xứng đáng với tấm lòng trân trọng của bạn bè.

10-92
Y.C
(TCSH53/01&2-1993)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)