Người mở cánh cửa thần bí*

09:21 07/03/2017

Nhà văn Phan Việt, phó giáo sư-tiến sĩ giảng dạy môn xã hội học tại một trường đại học danh giá ở Mỹ, vừa chia sẻ một bí ẩn riêng tư của mình: chị đã cạo tóc xuất gia tại một ngôi chùa ở Thái Lan.

Phan Việt sinh hoạt cùng các nhà sư ở chùa Rombodhidharma, thuộc tỉnh Loei của Thái Lan. (Ảnh do tác giả cung cấp).

Như vậy Phan Việt không chỉ xuất gia trong tâm mà chị còn xuất gia trên thân, hẳn là một bước chuyển mình quan trọng trong đời người, nhất là đối với một phụ nữ trẻ.

Ở tuổi 38, Phan Việt hiện là một cây bút được hâm mộ, nhà hoạt động xã hội năng nổ, một nhân vật của công chúng... Đang thỏa sức vẫy vùng và liên tiếp tỏa sáng như vậy, nay “xuất gia” rồi, liệu chị có còn làm việc và cống hiến như trước nữa không, và chị có cảm giác gì trong giây phút quyết định xuất gia?

Phan Việt trả lời: “Ngay giây phút đó, những gồng gánh và cả quả núi lớn từ trên vai tôi được vứt ùm xuống... Chính sau khi có thể chấp nhận và bỏ xuống những ý niệm về bản thân và việc phải làm, thì tôi lại có một sự rõ ràng và tự do tôi chưa từng biết đến, để có thể làm được rất nhiều điều mà trước đây tôi đắn đo. Sống để làm gì, sống thế nào trở nên rõ ràng hơn hết.

Cái gánh nặng và quả núi lớn mà Phan Việt từng cõng trên lưng ấy là những nỗi phiền muộn trong lòng chúng ta, chủ yếu gây ra bởi chúng ta làm việc với tâm thế chỉ muốn “thu vào”, “lấy cho mình”, cố thu vén cho bản thân những thứ như tiền bạc, danh tiếng, địa vị, sự ngợi khen, hâm mộ..., vì thế khi không thu nhận được những thứ ấy, chúng ta sẽ nản chí. Việc xuất gia đã giúp chị trút bỏ được gánh nặng ấy, từ nay chị nhẹ nhõm làm mọi việc với tâm thế “mở ra” và “cho đi” mà không bám vào một mục đích, mong muốn được đền đáp nào, nhờ thế có thể làm việc không mệt mỏi... Chính là khi không còn thấy bản thân và những việc mình làm là quan trọng thì tôi lại có lòng dũng cảm và sự tử tế lớn nhất để làm được nhiều việc.

Phải chăng, Phan Việt đã hiểu được khái niệm “Tính Không” của đạo Phật. Tính Không cũng là Vô Ngã, là ít nghĩ tới cái tôi, không coi bản thân là quan trọng, tức vị tha. Chị khẳng định: ở thời điểm này, giới trí thức mà chị là một thành viên nên chỉ có cho đi, nghĩa là đem cho mọi người mọi thứ mình có, từ thứ hữu hình như tiền bạc, vật dụng... cho tới thứ vô hình như sự giáo dục, đùm bọc, cảm thông... Triết lý ấy sẽ giúp chị đứng vững và làm tròn nhiệm vụ của một thành viên giới trí thức trong thời đại bất ổn này.

Sức mạnh nào đã khiến cho Phan Việt trong ba tuần ở chùa Rombodhidharma nhanh chóng chuyển từ “không” sang đồng ý “có” cạo đầu đi tu? Xin mượn lời của nhà thiên văn học Trịnh Xuân Thuận để nói thay chị. Không thụ lễ quy y nhưng ông Thuận thừa nhận mình là một Phật Tử, theo Phật không phải là theo một đấng thánh thần siêu đẳng nào, mà là theo tư tưởng của một nhà thông thái sáng suốt. Sức hút của đạo Phật chủ yếu là ở Thuyết nhân quả, tinh hoa của đạo Phật là Luật Karma (Nghiệp): ta luôn gặt hái cái ta đã gieo, những gì đã làm ở kiếp trước dù xấu tốt đều không mất đi, mọi nỗi khổ đau trong đời ta đều nảy sinh bởi một nghiệp chướng xấu từ kiếp trước, ta luôn phải gánh hậu quả của việc mình làm. Nói cách khác, người trí thức luôn nghĩ mình phải có ích cho mọi người. Họ theo đạo Phật chủ yếu để có một niềm tin dẫn dắt mình vừa thanh thản cống hiến nhiều hơn cho xã hội lại vừa tránh được mọi phiền muộn gây ra bởi thời cuộc nhố nhăng khó xử.

Người ta thường cho rằng tôn giáo đối lập với khoa học. Thực tế cho thấy giữa tôn giáo với giới khoa học, giới trí thức có tồn tại một mối quan hệ khó hiểu rất đáng quan tâm.

Mối quan hệ ấy được Einstein diễn tả trong câu: “Khoa học không có tôn giáo thì khập khiễng, tôn giáo không có khoa học thì mù quáng” [Science without religion is lame, religion without science is blind]. Einstein là người Do Thái nhưng thừa nhận Chúa Jesus và đánh giá rất cao đạo Phật. Ông nói: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như đi xa hơn khoa học”, “Phật giáo bắt đầu tại nơi khoa học kết thúc” [“If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to keep it up to date with recent scientific finding. Buddhism need no surrender its view to science, becauseit embrances science as well as goes beyond science”, “Buddhism begins where Science ends”].

Xưa nay, trên thế giới từng có những nhà trí thức sau khi đạt tới đỉnh cao sự nghiệp lại gắn cuộc đời mình vào một niềm tin tôn giáo.

Phải chăng giữa trí thức với tôn giáo có một cánh cửa thần bí thông với nhau và một số nhà trí thức khi lên tới tầng cao nào đó sẽ mở cánh cửa ấy để bước sang một cõi nhân sinh mới?

Nghệ sĩ Trung Quốc Lý Thúc Đồng (1880-1942) là một trong những người như vậy. Ông là đại diện ưu tú kết hợp văn hóa truyền thống Trung Quốc với văn hóa Phật giáo, vị cao tăng xuất sắc nhất trong Phật giáo Trung Quốc hiện đại, ngọn cờ đầu phong trào Văn hóa Mới ở nước này.

Lý Thúc Đồng là bậc đa tài, kỳ tài, kết hợp các tài năng âm nhạc, hội họa, thư pháp, nghệ thuật sân khấu, giáo dục mỹ thuật, là người đầu tiên đưa vào Trung Quốc các yếu tố văn hóa phương Tây như hội họa sơn dầu, đàn piano và kịch nói. Sau khi quy y, Lý tiếp tục đạt được những thành tựu xuất sắc về nghiên cứu Phật giáo, trở thành một trong bốn Đại Cao tăng thời Trung Hoa Dân quốc1. Ba vị kia xuất gia sớm, riêng Lý sau khi đạt tới đỉnh cao sự nghiệp mới đi tu.

Năm 26 tuổi, Lý Thúc Đồng đưa vợ con về quê rồi đi du học. Trong sáu năm ở Nhật, ông say sưa học tập, sáng tác, hoạt động xã hội, biên tập tạp chí âm nhạc, học Khoa Sơn dầu Trường Mỹ thuật Tokyo, lập đoàn kịch nói đầu tiên của Trung Quốc và diễn các vở “Trà Hoa Nữ”, “Túp lều bác Tôm” v.v... 31 tuổi, ông về nước cùng vợ mới là cô gái Nhật từng làm người mẫu khỏa thân cho ông. Tiếp đó ông hoạt động văn học-nghệ thuật và dạy học tại một số trường cao đẳng, trở nên nổi tiếng khắp Trung Quốc.

Năm 38 tuổi Lý Thúc Đồng bí mật thụ lễ quy y Phật giáo tại chùa Hổ Bão ở Hàng Châu, lấy hiệu Hoằng Nhất. Trước khi xuất gia, Lý Thúc Đồng viết một bức thư cho bà vợ người Nhật như sau (tóm dịch):

Em:
Lần trước đã nói với em rồi, chắc em đã hiểu, xuất gia chỉ là chuyện sớm muộn với anh mà thôi. Thời gian qua em đã suy nghĩ và thông cảm với quyết định của anh rồi chứ? Nếu đồng ý anh làm thế thì hãy viết thư cho anh biết nhé.
Anh hiểu nỗi lòng đau khổ và tuyệt vọng của em, khi em buộc phải chấp nhận mất đi một người từng có mối quan hệ cực kỳ sâu sắc với mình. Nhưng em là một người không tầm thường. Xin em hãy nuốt ngụm rượu đắng này rồi cố gắng sống cuộc đời của mình...
Quyết định như vậy không phải là anh cạn tình bạc nghĩa. Nhưng vì để đi hết chặng đường Phật đạo xa xôi, gian nan, anh phải bỏ lại tất cả. Anh bỏ lại em, cũng bỏ lại tiếng tăm và của cải tích lũy được trong đời mình. Những thứ đó đều là mây khói thoảng qua, chẳng đáng để luyến tiếc.
Cái chúng ta cần xây dựng là nước Phật sáng láng trong tương lai, trên mảnh đất Tây Thiên cực lạc. Chúng mình sẽ gặp lại nhau ở nơi ấy nhé...
Thúc Đồng. Ngày 1 tháng Bảy năm Mậu Ngọ
.”

Hai bà vợ vô cùng đau khổ tìm đến khuyên ông trở về gia đình, nhưng ông không nghe. Bà vợ Nhật bỏ đi mất tăm còn bà vợ đầu mang các con về quê.

Một nghệ sĩ tài ba, phong lưu công tử, một trí thức lừng danh như Lý Thúc Đồng vì sao cuối cùng lại xuất gia? Hãy nghe giải thích của Phong Tử Khải (1898-1975)2, một trí thức Trung Quốc nổi tiếng cuối đời cũng tu tại gia, học trò của Lý Thúc Đồng.

Đời người có thể ví như một tòa nhà ba tầng: tầng thứ nhất là đời sống vật chất, tầng thứ hai là đời sống tinh thần, tầng thứ ba là đời sống linh hồn. Đời sống vật chất là ăn mặc ở. Đời sống tinh thần là hoạt động học thuật, văn học-nghệ thuật. Đời sống linh hồn là tôn giáo. Ai lười hoặc không đủ sức leo cầu thang thì ở tầng trệt, chỉ lo sao cho cuộc sống vật chất được đầy đủ thì thỏa mãn. Phần lớn người đời có nhân sinh quan như vậy. Những người có hứng thú hoặc có đủ sức leo cầu thang thì lên tầng hai chơi hoặc ở hẳn. Đó là những người chuyên làm học thuật, văn học-nghệ thuật, dâng đời mình cho việc nghiên cứu, sáng tác và thưởng thức văn học-nghệ thuật. Số này khá nhiều, được gọi là “nhà trí thức”, “nghệ sĩ”, “học giả”.

Còn một loại người nữa có ham muốn mạnh mẽ và sức lực kiên cường, không thỏa mãn sống ở tầng hai mà tiếp tục leo lên tầng ba. Đó là những tín đồ tôn giáo. Họ không thỏa mãn với ham muốn vật chất cũng như ham muốn tinh thần mà quyết đi tìm bằng được ngọn nguồn tận cùng của đời người. Họ cho rằng của cải vật chất cùng con cháu đều là thứ ở bên ngoài thân xác, học thuật và văn học-nghệ thuật chỉ là những cảnh đẹp tạm thời, ngay cả thân xác mình cũng chỉ là thứ tồn tại hư ảo. Họ không chịu làm kẻ nô lệ cho bản năng mà phải tìm kiếm nguồn gốc của linh hồn, căn bản của vũ trụ. Có thế mới thỏa mãn cái ham muốn sống của họ.

Có người đi thẳng từ tầng trệt lên tầng trên cùng mà không dừng lại tầng hai. Riêng Lý Thúc Đồng đi lên từng tầng một. Ông có ham muốn sống cực kỳ mạnh mẽ, làm việc gì cũng rốt ráo đến nơi đến chốn. Thời trẻ ông tận hiếu với mẹ, hết lòng yêu thương vợ con. Ở tuổi trung niên, ông dốc sức nghiên cứu nghệ thuật, phát huy thiên tài trên nhiều mặt. Nhưng vì ham muốn sống quá mạnh nên ông không thỏa mãn với cuộc sống ở tầng hai. Và thế là Lý Thúc Đồng đi lên tầng cao nhất, trở thành nhà sư Hoằng Nhất tu Tịnh Độ Tông, nghiên cứu các giới luật, trở thành bậc cao tăng hiếm thấy, được thế gian ngưỡng mộ truyền tụng.

Điểm cao nhất của cầu thang tầng hai là tầng ba. Đỉnh cao nhất của nghệ thuật thì gần gũi với tôn giáo. Từ nghệ thuật thăng hoa đến tôn giáo – dường như đó là việc mà những nhà trí thức, nghệ sĩ lớn như Lý Thúc Đồng dĩ nhiên sẽ làm, không có gì lạ. Phải chăng tiến sĩ-nhà văn Phan Việt xuất gia gieo duyên cũng là một sự thăng hoa như vậy?

Nguồn: Nguyễn Hải Hoành - Tia Sáng

---------------
* Nhân đọc bài “Tôi xuất gia gieo duyên” của Phan Việt - Tạp chí Tia Sáng số 1+2 (15/1/2017)
1 Bốn đại cao tăng thời Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949) là Hư Vân, Thái Hư, Ấn Quang, Hoằng Nhất.
2 Họa sĩ, nhà giáo dục mỹ thuật, nhà phiên dịch, người mở đầu ngành biếm họa Trung Quốc. Năm 1927 quy y đạo Phật, trở thành cư sĩ tu tại gia.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • THU TRANG (Pháp)Vài tháng nay ở Pháp đã rộn ràng xảy ra nhiều chuyện đáng để chúng ta suy nghĩ. Có lẽ trước hết là việc chiếc tàu Erika chở dầu đã bị vỡ hầm chứa ngoài khơi, biển Bretagne vùng Tây nước Pháp. Một đại nạn! Dầu đã bị sóng đưa vào bờ làm đen bẩn hầu hết các bờ biển, bãi tắm nổi tiếng.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGSakuya là vị nữ thần cực kỳ xinh đẹp của xứ mặt trời mọc. Nàng là người đầu tiên tự tay gieo hạt giống cây anh đào trên núi Phú Sĩ. Mùa xuân hoa anh đào nở, đẹp cái đẹp lộng lẫy mê hồn của nàng. Bởi thế, người Nhật gọi hoa anh đào là Sakura - đọc trại từ Sakuya. Ngày nay, hoa anh đào đã có nhiều loại và mọc nhiều nơi, nhưng không nơi đâu đẹp bằng hoa anh đào ở núi Phú Sĩ.

  • VŨ LÊ THÁI HOÀNGTrong ánh nắng vàng rực tuyệt đẹp, giữa một New York hối hả, tấp nập, tua tủa nhà chọc trời, kiêu hãnh hiện ra bóng hình một phụ nữ khổng lồ tay cầm ngọn đuốc cháy sáng soi đường vào Tân Thế Giới.

  • ĐẶNG THỊ HẠNHMùa rét năm ấy ở Paris đã không có tuyết. "Một điều rất đặc biệt", ông Xuân Thủy nói với tôi như vậy khi tôi đi dạo với ông trong khu vườn bao quanh một cơ quan của Đảng Cộng sản Pháp dành riêng cho phái đoàn thương lượng của ta ở Paris .

  • HÀ PHẠM PHÚTôi chọn cái tựa trên cho bài viết một phần vì tôi bị ám ảnh bởi bộ tiểu thuyết Thiên long bát bộ của Kim Dung và bài của Quách Phong, một nhà nghiên cứu trẻ công tác tại đài phát thanh truyền hình châu Đại Lý - viết về chuyến thăm Đại Lý của nhà văn rất nổi tiếng này.

  • VÕ QUANG YẾNNúi cao cũng có đường trèo,Đường đi hiểm nghèo cũng có lối di.                                                Ca dao

  • VÕ QUANG YẾNNguyễn Hải Đang, 20 tuổi xuân xanh, xúng xính trong bộ y phục mới tinh trường Bách Khoa Ecole Polytechnique, thường được gọi tắt là X.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGKathmandu là kinh đô của vương quốc Nepal, nằm dưới chân Hy mã Lạp sơn. Là thành phố của tôn giáo và nghệ thuật, của nghi thức và lễ hội, của cổ kính và hiện đại, của thánh thiện và tâm linh, của suy tư và khát vọng, của du lịch và mộng mơ, của nắng gió và tuyết. Ngày nay, Kathmandu còn là thành phố của thanh bình và chiến tranh.

  • PHẠM THỊ ANH NGABài này nhằm giới thiệu một vài nét về diện mạo thi ca Pháp và một số hoạt động liên quan đến thơ trong xã hội Pháp những năm gần đây.

  • ĐINH CƯỜNGViện Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg, Paris vừa chấm dứt cuộc triển lãm qui mô, hàng trăm bức tranh của một họa sĩ lẫy lừng, bi thảm nhất thế kỷ hai mươi: Amedeo Modigliani.

  • ĐẶNG TIẾNNước Pháp có những thành phố nhỏ, lừng danh nhờ một sinh hoạt văn hoá. Ví dụ như Cannes, Deauville với những Đại Hội Điện Ảnh. Hay Angoulême nổi tiếng từ 30 năm nay với truyền thống Festival Quốc Tế Truyện Tranh BD, do chữ Bande Dessinée viết tắt, có nghĩa là băng hoạt họa (strip cartoon). Thành phố lịch sử với năm vạn dân, cách Paris hơn 400 km về phía Tây Nam, từ ngày 23 đến 26 tháng 1-2003, trở thành trung tâm thế giới về nghệ thuật Truyện Tranh BD, lần thứ 30.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP                         Ghi chépMột chiều cuối đông năm ngoái tại góc Quán Cũ 25 Phan Đình Phùng, khi biết chúng tôi chuẩn bị chuyến khảo sát văn hóa tại Nhật Bản, giáo sư Đại học ngoại ngữ Tokyo Kawaguchi đề nghị chúng tôi nên bố trí kế hoạch đến Nhật vào mùa xuân để còn kịp ngắm hoa anh đào. Y lời, đúng ngày mở đầu tháng Tư năm nay, PGS.TS Phan Trọng Thưởng, Viện trưởng Viện Văn học và tôi lên đường công du sang Nhật khi biết chắc hoa anh đào đã nở.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG                     Ghi chép Truyền thống trong hội nhập...Rời xe bus số 64 chúng tôi rảo bộ trên con đường lát đá tảng của phố Della Concilia Zionli giữa hai hàng cột đá trông như những ngọn nến khổng lồ để đến với nơi mà bất kỳ người dân công giáo nào cũng hằng mơ ước.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG                                KýSau gần nửa tháng rong chơi suốt hai đầu thượng hạ Ai Cập, tôi trở lại Paris chuẩn bị chuyến du hành sang Hy Lạp. Bỗng được tin của Văn Cầm Hải từ quê nhà: “Thầy về gấp. Đi Tây Tạng ngày 15/9”. Tôi quyết định ngay. Lúc ấy tôi không hiểu vì sao. Bây giờ thì tôi đã hiểu vì sao.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGTôi mới có ý định leo núi Phú Sĩ trên đường từ Tokyo về cố đô Kyoto. Chiếc tàu siêu tốc chạy ngang qua vùng núi Fuji. Bên ngoài, trông Fuji hùng vĩ và đẹp hơn trong ảnh nhiều. Trên nền xanh thẳm của Công viên Quốc gia Fuji-Hakone-Izu, hai cánh núi từ tít tắp hai đầu Bắc Nam như đôi tình nhân thiên thu gặp lại, tràn về phía nhau. Và khi gặp nhau, cả hai hoà thành một, rồi bay vút lên trời, xuyên qua mấy tầng mây, để lộ giữa thinh không cao ngút cái chỏm mĩ miều như đầu ngọn bút lông.

  • TRẦN LỘC HÙNG1. Bạn bè tôi thường nói: “Không hiểu nước Nga nuôi mày kiểu gì mà tới bây giờ mày vẫn yêu nước Nga”. Vợ con tôi cũng vậy. Nước Nga dưới con mắt của những người thân của tôi hoàn toàn khác tôi. Đơn giản vì tôi đã tới nước Nga từ những năm tôi mới 17 tuổi, hơn nữa tôi đã sống, học tập và làm việc ở nước NGA ngót nghét 10 năm.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG                           Bút kýChuyện kể rằng, vào một ngày tuyết trắng Tây kinh, Võ Tắc Thiên bỗng cao hứng lệnh cho tất cả loài hoa, nội trong một đêm phải nở hết. Sáng hôm sau, tuy giữa mùa đông giá lạnh, các loài hoa đều ríu rít nở, trừ... mẫu đơn. Võ Tắc Thiên giận lắm, bèn phán đày mẫu đơn xuống Lạc Dương cho khuất mắt. Từ đó, Lạc Dương trở thành quê hương của hoa mẫu đơn.

  • LÊ BÁ THỰ           Bút kýNhận lời mời của Bộ Văn hoá và Viện sách Ba Lan, tôi đi dự Đại hội Dịch giả Văn học Ba Lan toàn thế giới lần thứ nhất. Sau khi đến Vacsava,  sáng 11 tháng 5 tôi đáp xe lửa xuống Krakow , thành phố cách thủ đô Vacsava trên 300 cây số. Ngồi bên cửa sổ con tàu, tôi ngắm cảnh mùa xuân hai bên đường: những rừng thông tươi tốt, những cánh đồng lúa mì xanh xanh trải dài tít tận chân trời.

  • VI THÙY LINH           Tuỳ bútNgười Trung Quốc (TQ) có câu: “Trên trời có thiên đàng, dưới có Tô Châu, Hàng Châu”. Chỉ thoạt nghe, đã thấy người ta thật tự hào, về cảnh đẹp thành phố (TP) này đến thế nào, trên đất Đại lục dày đặc thắng cảnh, di tích, kỳ quan của Trung Hoa cẩm tú.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNG              Tản mạn từ Bruxelles Dưới mái hiên trạm gác cũ Porte de Ninove gần chỗ tôi ở có sống một cư dân đơn độc và lưu niên. Gã bù xù, tôi chỉ biết gọi gã như thế, nom chỉ trạc ngoài ba mươi nhưng có vẻ như đã cũ nát lắm rồi. Không ai biết gã từ đâu dạt vào, ở đó từ bao giờ.