Người gác chiếc bình cổ Trung Hoa

10:03 10/08/2009
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

Nhà văn Slawomir Mrozek (Ba Lan) - Ảnh: vnthuquan.net

Chiếc bình cổ Trung Hoa chính là vật hiếm này. Nó lại càng là của hiếm do người ta phát hiện được khi nó chẳng còn nguyên xi, mà ở dạng một ngàn chín trăm tám mươi hai mảnh vỏ, tức thị mảnh vỡ. Người ta lần lượt tìm thấy những mảnh vỡ đó trong vòng mười lăm năm đãi đất phù sa múc từ đáy của một con sông lớn ở Trung Quốc. Phù sa được sấy khô bằng phương pháp đặc biệt, rồi sau đó được sàng lọc bằng loại sàng khảo cổ đặc biệt. Từ những mảnh vụn được khai quật theo phương pháp đó người ta đoán định toàn bộ chiếc bình. Dĩ nhiên không thể làm xong ngay, mà từ từ, mất độ bảy năm sau đó. Và tiếp đó lại mất bảy năm nữa người ta mới có được chiếc bình mà cách đây năm ngàn năm bị vỡ thành một ngàn chín trăm tám mươi hai mảnh, nằm rải rác dưới lòng một con sông cái, vì người ta phải gắn chúng lại, tức thị tái tạo chiếc bình như nó vốn có ngày xưa.

Bởi giá trị của hiện vật này là vô song, cho nên người ta đặt nó ở một vị trí đặc biệt trong bảo tàng và dành riêng cho chiếc bình này một người gác đặc biệt. Thường thường những người canh gác trong bảo tàng họ canh giữ nhiều hiện vật cùng một lúc. Nhưng riêng trường hợp này nhiệm vụ của người gác chỉ là trông nom một chiếc bình cổ Trung Hoa duy nhất. Xem ra nhiệm vụ của người bảo vệ này có vẻ ngon lành hơn nhiệm vụ của các bạn đồng nghiệp của anh ta, nhưng trách nhiệm thì hết sức nặng nề.

Ấy chính vì trách nhiệm nặng nề như vậy cho nên người ta tìm kiếm mãi mới tuyển được một người vừa ý. Đó là một gã đàn ông ở độ tuổi chín chắn, không nghiện ngập thứ gì, là một người chồng, một người cha mẫu mực và mắn phúc, là một con người thực thà, luôn luôn biết lo toan bổn phận. Một chiếc ghế đẩu được đặt ngay bên cạnh chiếc bình cổ Trung Hoa và từ nay gã có bổn phận ngồi ở đó tám tiếng mỗi ngày, sáu ngày mỗi tuần và mười một tháng mỗi năm, mười một, tại vì mỗi năm gã được nghỉ phép một tháng. Tháng đó bảo tàng đóng cửa để sửa sang, tu chỉnh.

Báu vật được canh giữ cẩn thận đến nỗi người gác không lúc nào rời mắt khỏi nó, đó chính là nhiệm vụ của anh ta. Bằng cách như vậy hiện vật này được bảo vệ chu đáo trước mọi hiểm nguy vốn thường đe doạ các hiện vật trưng bày trong bảo tàng này. Lũ cướp hoặc quân phá hoại đội lốt người xen lẫn trong đám đông hễ lảng vảng tới gần chiếc bình là bụng bảo dạ, ở chỗ này thì đừng hòng xơ múi gì. Sự hiện diện liên tục và hết mực cảnh giác của người canh gác ắt tóm cổ ngay tức  khắc bất kỳ tên trộm hoặc kẻ coi trời bằng vung nào. Cho nên bọn chúng đành bỏ sang khu khác kiếm ăn. Trong những năm qua cũng đã từng xảy ra những vụ trộm và phá hoại trong bảo tàng này, tuy vậy đối với chiếc bình cổ Trung Hoa thì tuyệt nhiên không, mà ngay cả những hiện vật khác ở khu vực gần đó cũng vậy. Chính là nhờ sự cảnh giác cao độ mà khu vực quanh chiếc bình cổ lúc nào cũng hết mực yên ổn, không hề bị quấy nhiễu.

Tuy nhiên, cái yên ổn đó chẳng thể ru ngủ được sự tỉnh táo của người bảo vệ. Mà trái lại. Thâm niên làm người canh gác càng nhiều gã càng trông nom chu đáo vật báu được giao, càng cảnh giác với người xem. Bởi kinh nghiệm dạy rằng, hễ cái gì lâu lắm không xảy ra thì sác xuất nó sẽ xảy ra càng lớn. Nhưng đồng thời giá trị bất biến của chiếc bình vẫn không ngừng bất biến theo năm tháng, những năm tháng không kẻ nào dám đụng tới chiếc bình. Tuy nhiên, cũng trái lại, nó càng tăng, nhưng không phải về số lượng, bởi sự vô song và vô biên đâu có tăng được, mà là sức huyền bí và huyền thoại. Bởi lẽ, cái huyền bí càng lâu bị đụng đến thì nó càng tăng huyền bí lên gấp bội và chỉ có nghịch thần mới chặn được sự gia tăng này.

Thế rồi dần dà, song liên tục, người gác chiếc bình cổ vô giá nhích dần đến tuổi nghỉ hưu. Gã vẫn tiếp tục có một cuộc sống gia đình hạnh phúc, lại được đề bạt, vì ngần ấy năm gã phục vụ không chê vào đâu được và nhờ tằn tiện, vì như ta đã biết, gã chẳng nghiện ngập thứ gì, gã đã trở thành chủ nhân của một ngôi nhà nho nhỏ, có vườn tược hẳn hoi.

Rốt cuộc, ngày làm việc cuối cùng đã đến, chỉ hôm sau là gã bàn giao vị trí của mình cho thế hệ kế tiếp và về nghỉ hưu. Trong hội trường người ta đang khẩn trương chuẩn bị cho buổi lễ. Tối nay sẽ có cuộc chia tay với một nhân viên có nhiều cống hiến, có trao huân chương và bằng khen, sau đó là cuộc chiêu đãi với sự có mặt của Ban giám đốc, đại diện của Bộ và các bạn đồng nghiệp. Gã thực thi bổn phận như mọi ngày, tuy nhiên lần đầu tiên gã có linh cảm, một chuyện gì đó bất thường rồi sẽ xảy ra. Bởi giác quan thứ sáu của người canh gác, được phát triển thêm qua suốt ba mươi năm ròng công tác, mách cho gã hay rằng hôm nay sẽ xảy ra một vụ việc mà lâu nay chưa bao giờ xảy ra cả. Nỗi lo lắng của gã là dễ hiểu. Gã ngại, đúng vào hôm nay, ngày cuối cùng gã làm nhiệm vụ, cái nhiệm vụ suốt ba mươi năm qua gã đã làm tròn không chê vào đâu được, có kẻ đột nhập vào chốn có vật thiêng mà gã đang canh giữ và làm đổ bể toàn bộ công danh của gã, nếu gã không ngăn chặn kịp thời hành vi phạm thánh.

Rồi gã mài sắc tới cùng tinh thần cảnh giác vốn được thử thách và nâng cao suốt mấy chục năm qua. Gã căng mắt quan sát kỹ từng người đi lại gần thánh địa, lường trước mỗi bước đi, mỗi cử chỉ, canh chừng từng tiếng sột soạt và từng hơi thở. Gã luôn luôn giữ tư thế sẵn sàng, chỉ cần nhận thấy một chút dấu hiệu nguy hiểm là nhảy vào chặn đứng và tóm cổ. Thế rồi hàng giây, hàng giờ chậm rãi trôi qua. Nhưng thói thường, hễ đợi mãi mà không thấy chuyện gì xảy ra thì người ta lại càng đinh ninh là rồi nhất định nó phải xảy ra.

Lúc đó trời đã về chiều, đã hoàng hôn, gần kết thúc cái giờ khổ sở. Có điều, lúc này sự linh cảm của gã là sẽ xảy ra chuyện bất thường đã biến thành điều chắc chắn và khi tiếng chuông nổi lên báo cho dân chúng hay, đã đến giờ họ phải ra khỏi bảo tàng, thì gã không thể tin nổi là một ngày đã qua mà chẳng hề xảy ra chuyện gì cả. Cả ngày hôm nay, cả ba mươi năm qua là vậy.

Gã không dám tin cho tới tận phút chót, thậm chí cả khi người xem cuối cùng đã khuất khỏi cánh cửa đàng kia và sau đó nữa, khi trong nhà bảo tàng chỉ còn lại độc một mình gã, một mình gã bên chiếc bình cổ Trung Hoa, chiếc bình vẫn tiếp tục không bị đụng tới, không hề suy suyển. Và vẫn vô giá.

Đập tan chiến bình dễ như bỡn. Gã làm chuyện đó một cách dễ dàng trong vòng mấy giây nhờ có cái can. Chả là, từ dạo bị thấp khớp gã phải chống chiếc can cỡ bự. Rồi gã tăng gấp ba con số một ngàn chín trăm tám mươi hai mảnh vỡ của báu vật, dùng gót giầy nghiền từng mảnh vỡ. Sau đó gã mới qua cổng hậu ra khỏi bảo tàng, chẳng ai nom thấy.

Gã ra về với cảm giác cuộc đời gã đã không trôi qua một cách vô nghĩa. Bởi lẽ, hoá ra ba mươi năm cảnh giác của gã là hoàn toàn có cơ sở. Cái nguy cơ mà gã có bổn phận phải chống trả hoá ra là có thực. Thêm nữa, gã thấy khoan khoái trong người, tựa hồ trẻ lại. Chẳng phải trẻ lại ba mươi năm, mà là năm ngàn năm.

LÊ BÁ THỰ dịch
(183/05-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.

  • BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.

  • JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).

  • KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...

  • MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.

  • YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.

  • MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!

  • AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.

  • HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.

  • OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979  những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.

  • NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.

  • OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.

  • BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.

  • RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

  • ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.

  • TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết.                                                                                                                 TSCH

  • JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.

  • A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".

  • ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.

  • ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.