Đó là ngôi làng dưới chân núi Chư Mom Ray nhiều huyền thoại. Điều kỳ lạ là cả đứa trẻ 10 tuổi cũng nói được nhiều thứ tiếng, không chỉ tiếng của dân tộc khác, mà họ còn nói được tiếng Lào, Miên và những đứa trẻ được đi học thì tiếng Anh cũng không phải là ngoại lệ.
Lũ trẻ người Rơ Mâm ở làng Le cũng nói được nhiều ngôn ngữ khác nhau
Vùng đất kỳ lạ
Nghe điều này từ một cán bộ văn hóa thông tin của huyện Kon Tum, tính hiếu kỳ lại nổi lên khiến chúng tôi lặn lội từ thành phố Kon Tum ngược lên Ngọc Hồi với quãng đường hơn 80km, rồi từ đó rẽ xuyên rừng Chư Mom Ray, vượt ngầm, vượt suối 75km nữa đặt chân đến làng Le, ngôi làng của dân tộc Rơ Mâm duy nhất ở cực Bắc Tây Nguyên lúc mặt trời vừa khuất núi Chư Gor Tong, thuộc dãy Chư Mom Ray cao 1.773m. Mệt rã, ướt như chuột và bết trong bụi đỏ bazan.
Người đầu tiên chúng tôi gặp là thôn trưởng A Ren, thấy tôi A Ren xởi lởi dắt lên nhà. Lúc ấy trong nhà cũng đã có rất đông người làng đang tụ họp để nói chuyện. Những người dân nơi đây đã ra tiếp đón chúng tôi rất thân tình, những cái nắm tay thật chặt, nụ cười hồn hậu đã xua tan đi cái lạnh giá của núi rừng.
Ngôi nhà sàn của gia đình A Ren bỗng chốc tập trung rất đông người, đó là những người dân trong thôn bản. Một cảm giác gần gũi, thân thiện khiến chúng tôi không khỏi xúc động. Hết vài cang rượu theo đúng phong tục của người Rơ Mâm, tôi đem chuyện “ngoại ngữ” ra để hỏi mọi người.
A Ren cười tít mắt bảo: “Người Rơ Mâm làng mình từ già đến trẻ ít nhất có thể sử dụng được 3 thứ tiếng nước ngoài như Lào, Thái, Miên. Đấy là chưa kể tới tiếng của những dân tộc anh em sống quanh đây như người Kinh, người Rơ Ngao, người Giẻ Triêng, người Ve, người Jrai… như tiếng mẹ đẻ vậy.
Với vốn “ngoại ngữ” phong phú như vậy nên khi gặp bất kỳ người của dân tộc nào thì đều có thể nói được cả. Nhưng người của dân tộc khác lại ít hiểu, ít nghe được tiếng của người Rơ Mâm làng mình!”.
Hóa ra ngay như trưởng thôn A Ren này cũng “bỏ gùi” được cả chục “ngoại ngữ” một cách khá thông thạo. Và như để chứng minh cho tôi thấy, A Ren nói một tràng bằng tiếng Jrai, tất nhiên trong đó có một số từ mà tôi biết khi nhiều lần tiếp xúc mà nghe những người Jrai nói chuyện với nhau. Rồi tiếng Lào, tiếng Thái một cách lưu loát.
Để kiểm chứng rõ hơn về khả năng đặc biệt này của người Rơ Mâm, chúng tôi đã có cuộc khảo sát nhanh thông qua rất nhiều người. Anh A Lunh, một chàng trai người Rơ Mâm cho biết: “Người Rơ Mâm tuy cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả, nhưng trình độ dân trí lại không hề thua kém. Một trong những khả năng đặc biệt nhất của người dân nơi đây, là việc trong một thời gian ngắn có thể học nói được rất nhiều thứ tiếng các dân tộc khác nhau!”.
Một cậu bạn đồng nghiệp đi cùng tôi vốn là một người dân tộc Xê Đăng đã yêu cầu một vài người dân nơi đây nói vài câu tiếng Xê Đăng, lập tức mỗi người nói vài câu một cách rành mạch, rõ ràng. Điều đó, khiến cậu bạn tôi hết sức ngạc nhiên. Có những thanh niên khoe họ còn nói được cả tiếng Anh. Chúng tôi đề nghị họ nói vài câu xem thử, và họ cũng đã nói khá lưu loát.
Trong lúc cao hứng, trưởng thôn A Ren còn giới thiệu những cái tên như già H’lui, già A Ping, già A Miu, già Y My, già A Ông và nhiều già khác nữa có thể nói được hơn chục thứ tiếng khác nhau.
Nhưng đáng nể nhất vẫn là già làng Blong sống gần 90 tuổi nay đã mất có thể nói được 20 ngoại ngữ. Trong đó có cả tiếng Pháp, tiếng Anh. A Ren cho biết, trước đây khi quân Pháp, rồi quân Mỹ đến làng, già Blong đều là người đứng ra nói chuyện với Pháp, Mỹ để chúng không đàn áp dân làng, không bắt dân làng đi phu đi lính. Nhờ thế mà người làng mới còn lại đến ngày hôm nay được.
“Cái tài là của yàng cho đấy!”
Bên bếp lửa giữa mái nhà sàn, thấy tôi cứ tròn mắt ngạc nhiên, A Ren liền giới thiệu: “Đấy là già A H’lới, biết nhiều sử thi lắm, hát khan hay nhất làng, và cũng biết nhiều thứ tiếng lắm đấy!”.
Sau mấy căn rượu, các cụ già trở nên phấn khích, hồ hởi kể chuyện. Không có ranh giới chủ - khách, lạ - quen, tôi như một đứa con xa làng lâu ngày trở về. Dạo đó người Rơ Mâm nghe theo lời bộ đội đã rời khỏi núi Yang Sít ra đây lập làng mới, lớp người già ngày ấy nay chỉ còn sót lại ba người là A Ông (105 tuổi), A H’lới (77 tuổi) và bà Y Mi (89 tuổi).
Già A H’lới kể: “Ngày xưa, xưa lắm, cả trăm mùa trăng trước đếm không hết đâu, người Rơ Mâm đông hơn bây giờ nhiều, có tới 12 làng sống biệt lập với người JRai, người Giẻ triêng và nhiều người khác.
Làng Rơ Mâm của mình ở nơi cao nhất so với các dân tộc khác. Nhưng rồi một trận dịch khủng khiếp cách đây nhiều con trăng đã xóa sạch các làng Rơ Mâm, từ 12 làng chỉ còn lại một làng duy nhất đó là làng Le hôm nay thôi!”. Mắt A H’lới nhìn vào ánh lửa bập bùng một cách xa xăm...
Bên bếp lửa giữa mái nhà sàn, già làng A H’lới kể cho chúng tôi nghe về những nét văn hóa độc đáo của người Rơ Mâm. Điều khiến chúng tôi khó lý giải nhất là vì đâu mà khả năng học “ngoại ngữ” rất tài tình của người Rơ Mâm lại tốt như thế.
A Ren thì chỉ giải thích một cách chung chung rằng do dân số ít, để tồn tại giữa vùng rừng núi này để trao đổi hàng hóa, người Rơ Mâm phải quan hệ với các dân tộc khác, nên người Rơ Mâm phải biết rất nhiều “ngoại ngữ”.
Họ có thể nói tiếng dân tộc Hà Lăng, JRai, B’râu và thạo cả tiếng Lào như người bên tỉnh Atơpư của Lào chính hiệu. Ngoài săn bắt, hái lượm và trỉa lúa, người Rơ Mâm ở làng Le rất giỏi đánh cá bằng lưới. Bởi hàng trăm năm sống bên dòng sông Sa Thầy, họ đã nhanh chóng tiếp thu cách đánh lưới của các bộ tộc Lào ở bên kia biên giới. Chính vì có khả năng đặc biệt đó, nên mỗi khi người Rơ Mâm ở làng Le đi đến các làng khác, dùng chính ngôn ngữ của người làng đó để trò chuyện khiến ai cũng phải phục, và chính nhờ thế họ rất được quý mến. “Vì mình nói được tiếng của họ, cũng hiểu được văn hóa của họ nên họ tôn trọng lắm! Thế nên khi mình trao đổi hàng hóa đều có lợi hơn!” trưởng thôn A Ren tự hào.
Chính vì biết được nhiều thứ tiếng của các dân tộc anh em ở vùng này, nên mỗi khi có đoàn cán bộ huyện đi xuống cơ sở để tuyên truyền, trưởng thôn A Ren lại được đưa đi để làm thông dịch viên.
Nhiều khi đến các làng khác, người làng ấy buột miệng hỏi: “Mày là người Rơ Mâm mà sao biết nói tiếng của làng ta!?”, trưởng thông A Ren cười trả lời: “Vì tao trọng văn hóa của làng mày, nên học nói tiếng của mày. Có thế mình mới hiểu nhau được!”. Thế là sau buổi nói chuyện, nhiều lần A Ren được người làng khác kết nghĩa làm anh em.
Anh A Ren còn cho biết thêm: “Chúng tôi cũng không thể lý giải được khả năng học “ngoại ngữ” rất nhanh của người Rơ Mâm. Chỉ biết rằng, đó là một năng khiếu đặc biệt, mà bất kể người dân nào nơi đây cũng có được từ lúc còn rất bé!”.
Theo lời trưởng thôn A Ren, những người Rơ Mâm muốn học một ngôn ngữ của dân tộc nào, chỉ cần tiếp xúc với họ một thời gian ngắn là có thể giao tiếp được khoảng 80 - 90% như người gốc vậy. “Đấy là cái tài của Yàng cho người Rơ Mâm chúng tôi đấy!” già A H’lới cười nắc nỏm tự hào khi nói thế.
Trưởng thôn A Ren kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện khá vui và thú vị. Những đứa trẻ người Rơ Mâm khi bắt đầu đi học, thường học chung với nhiều đứa trẻ dân tộc khác như: Kinh, Ba Na, Xê Đăng, Jrai…
Chỉ sau một thời gian ngắn tiếp xúc, những đứa trẻ người Rơ Mâm có thể dễ dàng nói chuyện được với những đứa trẻ dân tộc khác bằng tiếng của người dân tộc mà chúng giao tiếp. Nhưng ngược lại, nếu chúng nói tiếng Rơ Mâm thì những đứa trẻ kia sẽ không hiểu gì. Lên lớp cao hơn chút nữa, những đứa trẻ còn được học tiếng Anh, và bao giờ những đứa trẻ Rơ Mâm cũng có khả năng học và nói tiếng Anh tốt hơn những đứa trẻ cùng trang lứa khác.
Cô giáo Đinh Hồng Thương, giáo viên trường tiểu học của xã nhận xét: “Các môn tự nhiên thì những học sinh này học vẫn bình thường, chỉ riêng môn ngoại ngữ thì các em học rất tốt, nhiều khi các em chỉ cần nghe nói là hiểu chứ không cần ghi chép như những học sinh khác. Điều đặc biệt là các em rất thích học ngoại ngữ!”.
Được biết, thời gian qua đã có 2 em học sinh người Rơ Mâm thi đậu vào ngành ngoại ngữ của trường Cao đẳng sư phạm Kon Tum.
Không chỉ già H’lới tự hào, mà nhiều người Rơ Mâm ở làng Le cũng bảo biết nhiều thứ tiếng là văn hóa bao đời của người Rơ Mâm, đó là điều mà người già truyền lại cho lớp trẻ, hết lớp này đến lớp khác để gìn giữ văn hóa của mình. Điều đó vô cùng đặc biệt trong thời buổi hiện nay.
Theo Minh Ngọc - An ninh thủ đô
NGUYỄN NHÃ TIÊN Bút ký"Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ. Hưng tộ diên trường ức vạn xuân". Nghĩa là: đất nước Hồng Lam sau ta năm trăm năm sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân.Không hiểu những tương truyền về "sấm ký" Trạng Trình "ứng nghiệm" đến dường nào, đâu là nguyên bản và thực hư ra sao? Có điều, chúng tôi đang viếng thăm làng quê Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo - quê hương của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đúng vào cái khoảng thời gian "sau năm trăm năm" ấy, và nhất là vào giữa cái kỳ gian mà đất nước đang từng ngày" Hưng tộ diên trường ức vạn xuân".
TRẦN HOÀNGTrong tiếng Việt, từ "Văn vật" là một từ thuộc nhóm từ gốc Hán và cùng tồn tại song song với các từ: Văn hoá, Văn hiến, Văn minh. Người xưa thường dùng từ này để nói, viết về truyền thống văn hoá của một vùng đất, hoặc của một địa phương. Chẳng hạn, lâu nay, cư dân đồng bằng Bắc bộ đã có câu: "Thăng Long là đất ngàn năm văn vật". Song có lẽ từ "Văn vật" xuất hiện nhiều nhất trong các cụm từ "làng văn vật", "danh hương văn vật". Điều này cho thấy từ xa xưa, tổ tiên ta đã rất quan tâm đến "văn hoá làng" và "làng văn hoá".
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử loài người, có những bức tranh, những pho tượng lấp lánh toả ánh hào quang lặng im của chúng trong sự lâu bền của năm tháng. Có những ký ức có thể thi gan cùng vĩnh cửu. Nhưng có lẽ, ngôn từ có sức mạnh riêng mà không một thách thức nào, dù là của không gian hay thời gian có thể làm nhạt nhoà những âm vang của nó. Tất nhiên, một khi nó đã đi vào trái tim và khối óc của con người. 1034 chữ của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một trong những áng ngôn từ có sức sống bền vững với thời gian như thế.
TRẦN QUỐC TOẢN Tôi sinh ra và lớn lên giữa làng Hến bé nhỏ bên bờ sông La xã Đức Tân (tức Trường Sơn ngày nay) huyện Đức Thọ - tỉnh Hà Tĩnh. Qua sự nhọc nhằn của cha, vất vả của mẹ đã đút mớm cho tôi từng thìa nước hến, bát cháo hến để rồi tôi lớn dần lên.
HỒ TƯNằm trên dải cát ven phá Tam Giang, từ xưa làng tôi cũng đã có một ngôi đình. Đến năm 1946, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, Chính quyền cách mạng đã vận động nhân dân triệt phá ngôi đình để tránh cho Tây khỏi làm nơi trú đóng.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Đất nước ta, miền Bắc và miền nối liền nhau bằng một dải đất dài và hẹp gọi là miền Trung. Dãy Trường Sơn chạy dọc biên giới phía Tây như một cột sống vươn những chi nhánh dài ra tận biển Đông, làm thành những đèo, trong đó hiểm trở là đèo Hải Vân.
PHẠM TIẾN DUẬT1.Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, khi nghiên cứu về dân tộc học, có luận điểm cho rằng, trong quá trình định cư dần dà từ Bắc vào Nam, các cộng đồng, một cách tự nhiên, hình thành từng vùng thổ âm khác nhau.
PHAN THUẬN AN.Nhiều người từng đến Lăng Cô hoặc nghe nói đến địa danh Lăng Cô, nhưng ít ai biết rằng vua Khải Định là người phát hiện ra khu du lịch nghỉ mát này.Có thể nói vua Khải Định là ông vua thích du lịch nhất trong số 13 vị vua triều Nguyễn (1802- 1945). Trong đời mình, nhà vua đã đi du lịch nhiều nơi tring nước và cả nước ngoài nữa.
Thiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.
Nhân giỗ tổ Hùng Vương 10 tháng 3 Âm lịch
Anh tôi đang giàu lên với nghề nuôi rắn độc, bị con hổ mang hỏi thăm vào tay. Mấy tiếng đồng hồ cáng tắt qua các cánh rừng đến bệnh viện huyện được cứu sống, nhưng vết thương bị hoại tử, hơn tháng sau mới xuất viện, tiêu tốn hơn chục triệu. Năm sau anh tôi lại bị chính con hổ mang ấy hỏi thăm ở tay kia. Lần này thì tôi đánh xe đi mời thầy thuốc rắn bản Lúng.
Đó là làng Lệ Mật thuộc xã Việt Hưng, (thị trấn Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Làng này có nghề nuôi bắt rắn, tới nay đã qua 900 năm.
Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, trải Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình.
"Sang Xuân ta sẽ ăn Tết khai hạ vào ngày mùng 7 tháng Giêng". Vì sao vua Quang Trung dám tuyên bố cả quyết như trên trước mặt ba quân? Tất cả bí mật của cuộc hành binh khôi phục Thăng Long đều được "gói trọn" trong một chiếc bánh chưng.
LGT: Nhà văn Thái Vũ với những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Cờ nghĩa Ba Đình, Biến động - Giặc Chày Vôi, Huế 1885... nay đã gần 80. Tuổi già sức yếu song ông đã hoàn thành tập Hồi ức, gồm 4 phần dày dặn. Trong đấy phần II: HUẾ - QUẢNG NGÃI VÀ LK5 là những trang hồi ức đầy “xốn xang” trước và sau CM tháng Tám.Sông Hương xin trích đăng một phần nhỏ gửi tới bạn đọc nhân kỷ niệm ngày CM tháng Tám thành công và Quốc khánh 2 – 9.
Nếu kể cả những công trình nghiên cứu văn hóa, địa lý, lịch sử có đề cập đến các địa danh ở các tỉnh Trung Trung Bộ thì xưa nhất phải kể đến “ Ô Châu cận lục” của Dương Văn An đời Mạc chép về sông núi, thành trì, phong tục của xứ Thuận Quảng, từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Kế đến là “ Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn tập hợp những tài liệu về địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa trong thời gian làm đô đốc xứ Thuận Hóa cuối thế kỷ 18.