Ngô Thời Nhậm... Ngài bị nghi ngờ

14:27 11/12/2008
TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

Sau khi đưa quân ra Bắc lần thứ hai, vời được Ngô Thời Nhậm tham chính, giúp Nguyễn Văn Huệ (Nguyễn Huệ) lên ngôi Hoàng đế, đại phá 20 vạn quân Thanh (1787), an định Bắc Hà, chính Ngô Thời Nhậm đã thay Thái Tổ Võ Hoàng đế Nguyễn Văn Huệ viết bài Lập học chiếu. Mở đầu bài chiếu ông khẳng định cho quan viên trăm họ trong thiên hạ biết rằng: “Kiến quốc dĩ giáo học vi tiên, cầu trị dĩ nhân tài vi cấp” (Dựng nước lấy việc học làm đầu, cầu trị lấy nhân tài làm gấp). Trước đây, giặc dã bốn phương, nhiều bề rắm rối nên việc học không được quan tâm, khoa cử dần dà bê trễ, nhân tài ngày thiếu thốn nhiều.
Quy luật tuần hoàn, hết loạn đến trị, mọi mặt phải được mở mang, lập giáo hoá, đặt khoa cử để chuyển loạn thành trị một cách toàn diện.

Ông ra lệnh cho các xã sở tại phải lập “học xã” (nhà dạy học), chọn các nho sĩ trong xã có học thức, đức hạnh tốt để giảng dạy cho con em mình; chọn các quan huấn đạo ở phủ đặt làm giáo tập ở phủ; hẹn đến khoa thi hương lấy Tú tài hạng ưu sung vào quốc học, hạng thứ đưa về làm phủ học; còn các Hương cống Triều cũ đều phải đến trình diện cửa quan, đợi bổ nhiệm các chức huấn đạo, tri huyện; các nho sinh, sinh đồ cũ cũng phải chuẩn bị đợi kỳ thi, hạng ưu thì được tuyển vào, hạng liệt (kém) bãi về trường học xã.
Ý thức rằng khi thiên hạ thái bình, muốn xây dựng đất nước hùng cường thì điều đầu tiên phải quan tâm là đào tạo nhân tài, chiêu hiền đãi sĩ, ông chủ trương thu dung tất cả mọi nguồn tri thức sẵn có, huy động bổ sung vào lực lượng giáo dục nước nhà, để đào tạo nhân tài cho đất nước.

Bên cạnh đó ông cũng rất cương quyết với bọn trọc phú, ô danh, lắm của nhiều tiền, mua học hàm, học vị để được tiếng là người có chữ. Thời Lê - Trịnh việc học hành ít được chú ý, khâu tuyển chọn nhân tài lại thiếu chính trực công minh, trường học trở thành nơi mua quan bán tước, ai nộp cho Nhà nước ba quan thì được đứng vào hạng sinh đồ (học trò - Tú tài trước Gia Long) được miễn các loại sưu thuế, phu phen, tạp dịch, nên dân gian thường gọi là “Tam quán sinh đồ” (sinh đồ ba quan). Đối với hạng người này trong Lập học chiếu ông ra lệnh: “Kỳ tam quán sinh đồ nhất thiết lặc hoàn dân hạng, dữ dân đồng thọ dao dịch” (Đối với bọn sinh đồ ba quan nhất thiết buộc trở lại hạng thường dân, cùng dân gánh chịu sưu thuế, phu phen, tạp dịch).

Đọc đến đây thấy lòng dạ hả hê, việc làm đó của Ngô tiên sinh đã để lại cho đời tấm gương sáng ngời về xây dựng một nền giáo dục chân chính, cổ suý được tinh thần thực học, nhằm đào tạo nhân tài, nguồn nguyên khí đích thực cho sự hưng vượng của quốc gia.
Nhưng Ngô Thời Nhậm Tiên sinh ơi! Ngài quá ư đáo để. Người ta tuy không tốn công đèn sách, kinh sử dùi mài nhưng người ta cũng tốn bạc tốn tiền, phải mất đến ba quan mới được tiếng là người có chữ, thế mà Ngài chẳng chịu để cho yên. Ngài có biết việc Ngài làm đã đẩy biết bao nhiêu người đang ăn trên ngồi trốc, thong thả nhàn cư, danh giá đồng hàng với quan viên hương lý bỗng nhiên trở lại hạng dân đinh, lại còn phải gánh chịu sưu thuế, phu phen, tạp dịch nữa chứ. Thật là “hơi bất nhã”.

Nhưng cũng xin cẩn cáo với Ngài, Ngài sinh hữu ngộ thời, chung cư đắc địa, gặp phải minh chủ tuyệt đối uy quyền, biết trọng dụng người hiền lại một mực yêu nước thương nòi, chăm lo cho giềng mối, cổ suý cho những ý kiến của Ngài nên Ngài mới tha hồ bày mưu tính kế làm trong sáng quan trường, đưa được sự học trở về chánh đạo; mặt khác, nhờ sở học uyên bác của Ngài, đức độ siêu thường của Ngài nên mệnh lệnh ban ra tức có ngay hiệu lực, chẳng ai dám khinh nhờn vì chỉ một đường tâm phục khẩu phục.
Chúng tôi nay, thế hệ hậu sinh, cũng đang sống trong cảnh có thể nói thiên hạ thái bình, nhưng việc giáo học xem ra còn nhiều nhiễu sự. Ngồi ở ghế nhà trường thì chạy điểm chạy thầy, học thêm dạy thêm về bản chất cũng nhằm mua thầy bán điểm, một số khác thì dùng tiền thao túng, dựa thế cậy quyền để con em mình được học hành nơi tốt nhất, chốn trường thi thì quay cóp, bán đề, rồi thi thế, rồi mua bằng,... ôi nhiều điều rối rắm!

Cái thuở của Ngài, ba quan tiền để mua của Nhà nước một mảnh bằng tuy hư danh nhưng là minh bạch, ba quan tiền đó được sung vào quốc khố, cũng là việc góp phần ích quốc lợi dân, ông sinh đồ ba quan tuy hư danh nhưng cũng không hề giả dối, người ta biết rất rõ về ông để đối nhân xử thế đúng mực với đời, còn cái thuở của chúng tôi, giữa cái học giả với cái bằng thật, giữa thực và hư, giữa trắng và đen, giữa đục và trong có quá nhiều lẫn lộn, muốn kính trọng nhiều người là điều không khó, nhưng muốn được đối xử rất đời với người mình không kính trọng lại khó hơn nhiều.

Cái thuở của Ngài sách vở hiếm hoi, Tứ thư, Ngũ kinh, Thiên, Y, Lý, Số của các ngài học ngàn năm chưa đổi. Người học trước dạy được người học sau, sách của người trước để lại được cho người sau, không những học được mà còn rất quý hiếm, còn cái thuở con cháu của chúng tôi, sách chỉ được học một lần, nếu để lại năm sau cũng chẳng ai cần đến nó. Chúng tôi nay, cha không dạy được cho con đã đành, anh cũng chẳng bày vẽ được cho em bởi chương trình từng năm người ta luôn thay đổi, cái công nghệ đổi mới thời chúng tôi phát triển tự do, cứ có vài quan chức chủ động hô hào, vài hội thảo tốn kém xảy ra là có ngay phong trào cải cách, cải cách triền miên, hằng năm đổi mới, chỉ cái kiểu chữ viết cũng đã làm hỏng bao thế hệ học trò, may phúc lớn của dân tộc đang còn nên qua bao lần đổi mới vòng vo đã xúi bẩy đổi thành kiểu cũ.

Cái thuở của Ngài học hành đỗ đạt rồi mới làm quan, còn cái thuở của chúng tôi đa phần học cho có mảnh bằng đủ để vào được cửa quan rồi tính kế cho con đường đỗ đạt lên cao hơn nữa mà được thăng quan tiến chức, thực ra con đường này là rất ưu việt, giúp cho nhiều người học hành chân chính thành đạt và có nhiều đóng góp hữu ích cho đời, nhưng khổ nỗi phải là quan thì mới được xem xét để được đi học dạng này, quan càng to thì sự học càng có điều kiện, rộng đường, nhờ các dịch vụ luận văn nên nhiều Thạc sĩ, Tiến sĩ thành công nhẹ nhàng, đỡ được chuyện dùi mài kinh sử, tất cả những hành vi trên vô cùng “tế nhị”, nếu sinh ở thời nay tôi cũng phải nghi ngờ tài thao lược của Ngài trong chốn quan trường.

Ôn cố tri tân, dẫu sao cái sự học dưới tay Ngài thuở ấy đến hôm nay các thế hệ hậu sanh vô cùng trân trọng. Hiện nay, nhiều nhân tài đang tự tìm cách vươn lên không phải bằng con đường gập ghềnh phía trước hằng năm đang còn mò mẫm, mà hướng ngoại đi tìm cái văn minh của nhân loại đã được khẳng định lâu đời mà ở quê mình không muốn học tập cái “văn hoá ngoại lai”. Hy vọng một ngày gần đây lớp hậu thế của Ngài chắc chắn sẽ giỏi khác kiểu của Ngài, và cũng chắc chắn sẽ có người làm được như Ngài mong muốn.
T.V

(nguồn: TCSH số 209 - 07 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĂN TÂMXứ Huế – Thừa Thiên có một vị lão thành cách mạng được nhiều người biết tên tuổi. Đó là cụ Nguyễn Vạn, tức Lê Bốn; tên khai sinh là Phùng Lưu – "thầy Lưu", sinh năm 1916, quê ở làng Thanh Thủy Thượng (nay thuộc xã Thủy Dương), huyện Hương Thủy.

  • NGUYỄN BÙI VỢI"Chống tham ô lãng phí" là một bài thơ về đề tài chính trị xã hội, một vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nó được viết ra năm 1956 khi miền Bắc sau chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ đang hàn gắn vết thương chiến tranh, khai hoang, phục hoá, tìm công ăn việc làm...

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMuốn tiếp cận với văn hoá văn học, trước hết phải xác định cơ bản đúng đắn thế nào là văn hoá và thế nào là văn học.

  • HOÀNG SĨ NGUYÊN Hồi học Đại học, tôi và mấy đứa bạn phải đi bộ năm, sáu cây số vòng quanh các hiệu sách thành phố để tìm mua cho được cuốn "Thơ và mấy vần đề trong thơ Việt nam hiện đại" (Hà Minh Đức, NXB KHXH, 1994).

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong cuốn sách dịch, đúng hơn là trích dịch Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki của M.M Bakhtin, chúng tôi đã giới thiệu những lời đánh giá quan trọng của các học giả thế kỷ XX đối với Bakhtin: "Bakhtin, nhà lý luận văn học lớn nhất của thế kỷ XX" (TS. Todorov). "Bakhtin, người giữ cho các khoa học nhân văn đối tượng riêng của chúng" (X.X. Avêzinxép), "Bakhtin, người đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về ngôn từ tiểu thuyết" (A. Tritrêrin)...

  • PHONG LÊViệc xác định một đề tài nghiên cứu cho bất cứ ai bước vào con đường khoa học, theo tôi là động tác quan trọng đầu tiên, có ý nghĩa quyết định, như là một ô cửa, một đột phá khẩu trổ ra cái bầu trời, hoặc quang đãng hoặc vần vụ mưa gió, rồi anh ta sẽ được bay lượn ở trong đó.

  • ĐỖ LAI THUÝNgàn mây tràng giang buồn muôn đời                                 Nguyễn Xuân Sanh

  • VŨ QUẦN PHƯƠNGTên thật cũng là bút danh, sinh ngày 18-9-1949 tại quê gốc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một số lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60-70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • HỒ TIỂU NGỌCLTS: Nhân dịp kỷ niệm 53 năm Quốc khánh nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài thơ sau đây của tác giả Đoàn Duy Thành. Bài thơ thể hiện tình hữu nghị cao quý của nhân dân hai nước Việt - Trung.

  • HỒNG NHU            (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.

  • THÁI BÁ LỢIMột nhà văn lớp đàn anh của tôi tâm sự: Chỉ có miền Trung mới có văn xuôi thôi, vì ở đây từ đất đai, khí hậu con người luôn luôn được thử thách, được cọ xát, được tôi rèn, với hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mới bật ra tư tưởng, mà văn xuôi là tư tưởng.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Không nhà thơ nào muốn lặp lại những gì thơ ca đã có, kể cả lặp lại chính mình. Đi tìm cái lạ cái mới, chính là bản chất của sáng tạo.

  • NGUYỄN QUANG HÀHình như trong máu của người Việt đều có một chút máu thi nhân. Cho nên thấy ai cũng mê thơ cả. Chả thế mà tít mãi vùng hẻo lánh, các bà mẹ ru con bằng Kiều, bằng ca dao. Lời ru giống như một sự ngẫu hứng, cứ thế tự trào ra từ tâm hồn mình.

  • TRẦN THANH ĐẠMNgày13 tháng 06 năm 2002 vừa qua là dịp kỷ niệm lần thứ 75 ngày mất của một trong những nhà yêu nước và cách mạng tiền bối, một nhà giáo dục lớn của nước ta đầu thế kỷ XX: chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927).

  • LÊ HỒNG SÂM Cách đây mươi năm, trong một cuộc phỏng vấn thân mật, chị Lộc Phương Thuỷ có hỏi tôi về những kỷ niệm đáng nhớ, liên quan đến văn học, nhất là văn học Pháp. Tôi đã kể cho chị Thuỷ mẩu chuyện nhỏ mà hôm nay tôi xin thuật lại, dưới tiêu đề phù hợp với một trong hai nội dung của hội thảo Fantine, Cosette và chiếc đòn gánh Việt .

  • HỒNG NHULTS: Những cuộc trao đổi mang tính nghề nghiệp về thơ ở tầm "vĩ mô" dường như đang co lại ở tầm "vi mô". Các ý kiến khác nhau, thậm chí ngược nhau trong tranh luận học thuật là chuyện bình thường. Song, sẽ không bình thường khi công cuộc đổi mới của Đảng đã bước vào nền kinh tế tri thức mà vẫn còn những "tư duy thơ" theo cơ chế suy diễn với những mục đích gì đó, ngoài thơ.Nhằm rộng đường dư luận, Sông Hương xin được trao đổi lại một trường hợp cụ thể sau đây.

  • MAI VĂN HOANỞ Huế tôi đã có nghe bạn bè nói sơ qua về cuộc hội thảo tập thơ "Đám mây lơ lửng" của Hoàng Vũ Thuật, tác phẩm đoạt giải A giải thưởng VH-NT Lưu Trọng Lư lần thứ hai (1996 - 2000) do Hội Văn nghệ Quảng Bình tổ chức.

  • ĐÀO DUY HIỆP“Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust (1871-1922) là một tiểu thuyết đồ sộ gồm bảy tập với trên dưới ba nghìn trang ngày nay đã được độc giả toàn thế giới say sưa đón đọc và được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đánh giá rất cao.

  • THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.