Ngô Kha - Người đãng trí can trường

10:16 08/05/2017

Trường ca “Ngụ ngôn của người đãng trí” đã đưa Ngô Kha - một nhà thơ tranh đấu trong phong trào hòa bình và dân tộc ở Huế - trở thành nhà thơ Việt đầu tiên kết hợp được thơ siêu thực và thơ yêu nước.

Nếu Paul Eluard và Louis Aragon đã giã từ thơ siêu thực để đến với thơ yêu nước, thì ngược lại, Ngô Kha hòa trộn thơ yêu nước và thơ siêu thực, thơ về chiến tranh và thơ khao khát hòa bình, thơ siêu thực phương Tây và thơ đậm sắc màu dân tộc Việt. Đó là nhà thơ rất hiếm hoi trong tiến trình thơ Việt hiện đại, vừa tranh đấu với những mục tiêu cụ thể, vừa xuống đường đương đầu can trường với bạo lực đàn áp, vừa làm thơ lãng đãng như một người đãng trí - một người đãng trí hiền hậu thương con người, yêu cuộc sống và thiết tha với những hình ảnh bất chợt, những giấc mơ không bình yên và những thông điệp không phải lúc nào cũng sáng rõ. Đọc tiểu sử vắn tắt của Ngô Kha, rồi đọc từng đoạn trong “Ngụ ngôn người đãng trí” của anh, chúng ta sẽ có được những mảnh ghép phối kỳ lạ giữa hình ảnh một nhà trí thức tranh đấu và hình ảnh một nhà thơ siêu thực đúng nghĩa.

“Nhà thơ Ngô Kha, sinh năm 1935 tại làng Thế Lại, TP. Huế. Tốt nghiệp thủ khoa khóa 1, Đại học Sư phạm Huế (1958-1959), cử nhân Luật (1962). Dạy văn ở các trường Quốc Học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Trần Hưng Đạo (Huế) từ năm 1960-1973. Tham gia "chiến đoàn Nguyễn Đại Thức", chiến đoàn quân đội chế độ cũ ly khai chống Mỹ - Thiệu - Kỳ (1966). Chủ trương nhóm Trí thức đấu tranh Tự quyết, 1970 và làm Chủ tịch Mặt trận Văn hóa Dân tộc miền Trung (1972). Bị chính quyền chế độ cũ bắt 3 lần, vào các năm 1966, 1971, 1972 và bị thủ tiêu sau hiệp định Paris (1973). Được nhà nước truy phong liệt sĩ sau năm 1975”.

Và đây, một đoạn thơ trong trường ca “Ngụ ngôn của người đãng trí”:

“… trong khu vườn tiền sử                                                  

dòng sông đen bắc cầu qua núi

với con voi ngà thời thượng cổ

hai chiếc sừng tráng lệ                                                 

mạch đất quê hương giờ lạnh rồi

sao mắt mẹ còn mở

sách trên án thư cũng ngủ khuây

nhưng hồn mẹ vẫn thao thức

con đã đi bao năm

mẹ không rời ngưỡng cửa

và nay

gió cũng tang bồng

nhưng thi sĩ vẫn nằm yên trong nhà tù vĩnh cửu”.

Đây có lẽ là đoạn thơ sáng rõ nhất trong bản trường ca hơn 700 câu thơ này, bản trường ca Ngô Kha viết chính trong thời điểm khốc liệt nhất của cuộc đời anh, khi anh dấn thân tranh đấu và bị tù đày, khi anh vừa dạy học vừa tham gia các tổ chức đối lập với chính quyền Sài Gòn, vừa chống cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ vừa nêu cao những bài giảng về lòng yêu nước cho học sinh của mình. Nhiều bạn hữu, nhiều đàn em, nhiều học sinh của Ngô Kha đã không bao giờ quên được dáng vẻ hiền hậu và tinh thần trí thức của anh, sự độc lập trong suy nghĩ và sự quyết liệt trong hành động yêu nước của anh. Vậy mà nhà thơ ấy, khi làm thơ, lại làm thơ… siêu thực. Như dòng sông Hương chảy qua trước nhà Ngô Kha ở 42 Bạch Đằng – TP. Huế, vừa phẳng lặng hiền hòa vừa chất chứa những sóng ngầm những linh hồn, những cổ vật, những câu chuyện cổ tích từ bao đời.

Trong sáng tạo thơ ca và trong số phận Ngô Kha có gì cứ khiến tôi nhớ đến Federico Garcia Lorca - nhà thơ siêu thực và yêu nước vĩ đại của Tây Ban Nha. Lorca cũng làm thơ siêu thực, và cũng đấu tranh chống chế độ độc tài của phát xít Franco, và cuối cùng, cũng bị bọn phát xít thủ tiêu vào năm 1936, đúng như cái cách Ngô Kha đã bị thủ tiêu sau đó 37 năm, vào năm 1973. Hài cốt Lorca và Ngô Kha đều vĩnh viễn không được tìm thấy, vĩnh viễn hòa trong Đất Mẹ. Lorca (1898-1936) và Ngô Kha (1935-1973) đều bị thủ tiêu ở tuổi 38. Cả Lorca và Ngô Kha đều có những bài thơ như nhìn thấy trước cái chết của chính mình.

“người say rượu lẩm nhẩm một mình

mùa hè có tuyết đen tuyệt đẹp

tôi vụt chạy bỏ linh hồn ở đó

không có đứa con gái, đứa con trai, người say rượu

chỉ có quả gấc hồng hào rực ánh lửa chiến tranh

người con gái đứng nhìn cánh sao lạc loài

trên nét mặt hiền hòa bất động của em

tôi thấy nốt ruồi son chói lọi

tiếng chim sành hót trong tiềm thức người say rượu

vỏ cây nứt một loài hoa vô sắc

tôi lạc vào miền vô vi

bài diễn văn cuốn theo lớp lá khô

người say rượu uống nhựa thông nằm chết tình cờ

đêm sửa soạn bài ngụ ngôn của người đãng trí

lá từ giã cành cây làm lễ đọc kinh

người con gái lặng yên xem chúc thư

bó hoa tôi mang đến dòng sông bây giờ đã héo”.

Ngô Kha đã nhìn thấy trước cái chết của mình như vậy đó. Nhưng anh không lùi bước, không trốn chạy. Anh bình thản đón nhận cái chết từ những kẻ giết người hèn nhát và giấu mặt. Đúng như cách Lorca đón nhận cái chết của mình từ lũ sát nhân phát xít.  

Vì sao lại là thơ siêu thực ?

Có lẽ vì thơ siêu thực “đột nhập” được vào những khoảng bất chợt trong tâm hồn sâu thẳm con người, với những hình ảnh mờ chồng tự động và nhiều khi sẫm tối, nó phát hiện cho ta thấy sự phong phú nhiều khi đáng kinh ngạc của đời sống nội tâm một con người, ở đây là một thi sĩ. Thơ siêu thực không dễ làm, và dĩ nhiên, khó hay, nhưng khi đã thành công, thì nó vụt sáng. Đó cũng là phần không thể thiếu được trong thơ ca hiện đại. Khi chọn hình thức thơ siêu thực, một trí thức tranh đấu can trường như Ngô Kha đã chọn cho mình một phương thức biểu đạt không trực tiếp. Thơ Ngô Kha không làm khẩu hiệu xuống đường như thơ Trần Quang Long, nhưng nó cần thiết biết bao cho tâm hồn con người đương đại. Ngay trong cuộc chiến đấu, con người vẫn là một sinh thể vô cùng phức hợp, và thơ siêu thực cũng là một trong những nhu cầu tinh thần của con người.

Trong cuộc kháng chiến vì Độc lập - Tự do của dân tộc ta, đã xuất hiện nhiều dạng thơ yêu nước, và mỗi dạng thơ đều có đóng góp riêng của mình vào cuộc tranh đấu ấy. Vui mừng biết bao, khi trong dòng thơ lớn ấy, có thơ siêu thực của nhà thơ - liệt sĩ Ngô Kha. Anh chính là một F.G.Lorca của Việt Nam, với cây đàn lya và bài ca lãng đãng trên con đường đơn độc về một miền xa thẳm nào.

Tôi yêu Lorca. Tôi yêu Ngô Kha. Những nhà thơ quí hiếm như luôn sống mãi trong tâm hồn dân tộc mình, trong hành trình về tương lai của đất nước mình. Những kẻ sát nhân luôn bị quên lãng, bị lịch sử bỏ qua. Còn những nhà thơ - liệt sĩ thì luôn được tưởng nhớ bởi nhiều thế hệ.

Theo Thanh Thảo - TTH

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.

  • Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.

  • Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.

  • Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).

  • Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.

  • Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.

  • NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.

  • “Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.

  • Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.

  • Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.

  • Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).

  • Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).

  • Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.

  • Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.

  • Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.

  • Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...

  • Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.

  • Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.