LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Tùy bút
Mối cảm giao với Túy Vân khởi sự từ sự tạo sinh của đất trời trong lớp lớp mây trắng chảy tràn, tuyết tô cho ngọn núi mệnh danh thắng cảnh thiền kinh Cố đô.
Ảnh: internet
Mang cái tâm thức của kẻ hành hương, ta bước đi bằng bước chân của người tịnh khiết đương dẫm chân lên địa vực của ngọn linh sơn trấn biển. Bàn chân ấy lạc lên núi mây, qua những bậc cấp thoai thoải dọc sườn xanh, Túy Vân cổ kính hiện lên trong sương khói.
Cuộc núi Túy Vân đẹp hiếm có trên toàn dải duyên hải đất Thuận Hóa. Tăng chúng từ lâu đã đến đây khai sơn trấn nhậm một vùng trời nước bằng tiếng chuông thanh. Núi có dáng dấp tròn trịa, cây cối phủ xanh cô tịch bên đầm phá nên được một số tăng nhân chọn làm nơi khai sơn dựng tự làm nơi cầu phúc cho dân. Niên đại những ngôi chùa sớm nhất được lập thì không nghe nhắc tới, mãi đến năm 1692, chùa được chúa Nguyễn Phúc Chu cho tu sửa làm nơi hóa duyên cho tôi chúng gần xa. Thánh Duyên cổ tự tồn tại thêm gần trăm năm nữa thì lâm vào cảnh hoang tàn do chiến tranh loạn lạc suốt mấy chục năm, hết Trịnh Nguyễn phân tranh lại đến cuộc chiến giữa nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Phải gần nửa thế kỉ sau, năm 1825, vua Minh Mạng kinh lí qua đây thấy thắng tích hoang tàn cảm động mới cho xây lại với lời dụ khẩn thiết tri bia kí bên góc chùa: “Năm ngoái ta từng đi qua, nghĩ rằng danh sơn thắng tích không thể để mất đi, huống hồ nơi đây lại chính là do Hoàng tổ ta cho xây dựng nên để cầu phước cho con cháu và tôi dân”. Năm 1836, nhà vua lại cho “đại trùng kiến” chùa và làm 4 bài thơ vịnh cảnh, từ đó Túy Vân trở thành một quốc tự, án trấn một vùng trời nước mênh mông.
Núi lúc trước được các chúa Nguyễn đặt tên là Mỹ Am, sau vua Minh Mạng cho đổi tên núi từ Mỹ Am thành Túy Hoa. Vua Thiệu Trị lên ngôi vì kiêng tên mẹ (Hồ Thị Hoa) nên đổi tên là Túy Vân cho đến bây giờ. Vị vua thi nhân Thiệu Trị đã để lại bài thơ “Vân Sơn thắng tích”, bình Túy Vân là Đệ Cửu cảnh trong thần kinh nhị thập cảnh. Một áng thơ trữ tình, ngợi ca vẻ đẹp của ngọn núi thiêng “Cầu long ẩn phúc liệt lân tuân” (Rồng thiêng ẩn phục vây chầu xung quanh). Bài thơ thất ngôn bát cú với những câu tuyệt như:
Tuệ phong chung độ u lâm hưởng,
Không vũ hương la pháp hải tân.
(Tiếng chuông vọng tới rừng xanh
Màn hương mưa phủ pháp lành biển khơi).
Đại hồng chung trên Thánh Duyên cổ tự là ngọn gió âm đưa minh tâm đến chúng sanh, khai thị cả chốn rừng xanh u tịch. Giữa tiết trời mưa phủ giăng khắp chốn già lam, pháp màu nhuộm trong tâm tưởng thi nhân vốn ngự cung vàng để phóng bút vẽ nên bức tranh Túy Vân trong như cõi tịnh. Gót trần bước lên những bậc đá rêu xanh, hai bên cây xanh che lối, mây bay trên đầu, mây vờn quanh núi, mây họa đông phong, mây dìu gót bước. Bụi bặm trần gian theo gió mây trôi tuột cả ra bể Đông hồ hải nhịp sóng dâng. Chân dẫm lên những cụm bông độc mộc cuối mùa xanh biếc, lẻ loi nằm bên bậc đá, chạm vào thông điệp vô thường sau mùi hương tao khiết của cái chết hoa.
Ta đứng trong Đại Hùng bảo điện 3 gian 2 chái, làm theo kiểu cách Cung điện Huế, lặng yên nghe tiếng kinh mõ u trầm bên một chú tiểu đương công phu sáng. Màn hương trầm phủ khắp đại điện, bay theo những lời kinh xông thấm cái căn tín chực nẩy mầm xanh bồ đề. Đại điện thờ Tam thế Phật, tượng Thập Điện Diêm Vương và đặc biệt là bộ Thập bát La Hán bằng đồng nhỏ. Chính vua Minh Mạng đã cho đúc bộ tượng Thập bát La Hán bằng đồng với những nét điêu khắc tuyệt đỉnh của nghệ thuật đúc đồng vào thế kỷ XIX, và nay là một bộ tác phẩm quý báu trong kho tàng bảo vật quốc gia. Lòng ngưỡng vọng người chí lớn, đức lớn, đấng minh quân kinh bang tế thế như Minh Mạng việc gì cũng thành công nghiệp lưu danh muôn thuở.
Tiếng kinh đều đặn chuốc vào tâm lăn tăn sóng của ta, cái vị cảm của một ta - tha nhân lưu đày trong chính mình, không vượt thoát khỏi giới hạn của kẻ lụy trần. Nhưng tha nhân lâu lắm không nghĩ và không biết mình bị lưu đày trong chính tha nhân. Tha nhân cười, tha nhân say, tha nhân ôm riết vòng đời trong hoa, trong rượu và những cuộc lữ mòn lở núi non.
Mưa phùn tỉ tê buông xuống hiên chùa. Ta nhìn mưa sa mù cả khoảng lối vào, nơi mới đây thôi ta đặt chân đến bên tiếng kinh, ta bước qua không gian khác đầy ánh sáng vi diệu và nhìn lại con đường ta đi mịt mùng, ảm đạm. Ta nghĩ đến lời Phật nói đến shunyata - nghĩa là trống rỗng tuyệt đối. Không cái gì xảy ra ở đó, không ai tới, không ai đi, không ai can dự. Tâm ta quay trở về với tự tánh, là mặt nước phẳng lặng, trong veo, không gợn, không xô bồ, không. Ta trống rỗng, có thật sự trống rỗng, như một li nước vừa đem đổ đi. Nếu ta trống rỗng, ta đã đoạn diệt được khổ đau, phiền não. Đôi chân sẽ đặt lên áng mây lành, những giỏ hoa trời về đậu bàn tay. Kim thời gian khi ấy sẽ ngừng lại ở số không. Và đến ta cũng không còn thấy ta nữa. Một cái ta sai biệt hay một cái ta chân bản đã dừng lại đó, ngắm nhìn mưa pháp thấm nhuần một phần đời bươn chải.
*
Hơi lạnh lập đông trùm lên ta thứ men say cóng buốt tịch liêu. Một mình thảnh thơi bước giữa núi, chân dưới đất, hồn treo mây. Chợt nhớ tới hai câu trong bài thơ “Thánh Duyên tự chiêm lễ” (Dự lễ chùa Thánh Duyên) của vua Minh Mạng:
Tùng quan hoa tiếu khách,
Thạch kính điểu nghênh nhân.
(Cổng rợp bóng tùng mừng bước khách
Đường đá rộn tiếng chim đón người)
(Nguyễn Phước Hải Trung dịch)
Nghiêng mình nhìn ngọn đông phong luồn qua tóc hàng thông cổ thụ, bất lực trước thiết mộc hiên ngang ngẩng đầu sơn trấn mấy trăm năm. Tóc thông xanh biếc dựng những bông mây trên cành. Chim chóc ẩn tàng trên đám lá xanh lảnh lót hót lên những tiếng đồng vọng làm vương víu cả con đường đá xanh thơm hương độc mộc. Sau cành thông già, tháp Điều Ngự cổ kính nhô lên xa xa như một ngọn đuốc hồng giữa màu xanh mơ màng.
Người xưa bảo, lên Túy Vân không thể không một lần leo lên tháp Điều Ngự. Đây là điểm cao nhất núi, tha hồ ngắm gió trời lồng lộng vun mây xây thành đắp khói. Tháp có hình khối tứ giác, cao ba tầng, ba mặt trổ thông cửa, một mặt xây kín. Trên đỉnh tháp Điều ngự xưa có dựng trụ đồng đặt Pháp luân chuyển động theo gió, có cả chuông lắc để khi gió thổi âm thanh có thể vang vọng ra xa. Cái tên Điều Ngự nghĩa là điều phục và chế ngự bản ngã, trong kinh văn nói đến bậc điều ngự trượng phu, ý chỉ người có công phu tu hành, điều phục tâm trần. Từ đó dẫn đến sự thờ phụng trong ba tầng tháp, đều thờ các vị Phật - Thánh đại diện ba coi trời - dương thế - âm thế gắn với trạng tính điều ngự đó, ví như: tầng trên cùng của tháp, xưa thờ Trung Thiên Điều Ngự Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, tầng giữa thờ Nhân gian Điều Ngự Phước Bị Quần sanh Vạn Thiện Chí tôn và tầng dưới thờ Địa phủ Điều Ngự Minh Sát Sâm Nghiêm Diện La chủ tể. Ngày nay, sự thờ phụng đó không còn nữa, tháp chỉ thờ một số tượng Phật nhỏ ở tầng dưới cùng.
Trong nắng chiều loang đổ, những gam màu non nước quyện vào nhau thành một bức tranh sơn thủy. Những cánh chim di bay về, bóng chao nghiêng cửa Tư Dung, tạc cả vào Cầu Hai phẳng lặng tình rồi tan biến vào màu xanh đại ngàn Bạch Mã. Bên tháp Điều Ngự, một nhánh thông già vươn thẳng trời xanh in lên dáng nước non màu lục cổ bản của cội nguồn thơ. Ta đâu hiểu nỗi thông thao thiết trăm năm cô lẻ trên chốn tịnh trần thanh dã trời nước mênh mông.
Túy Vân, ta cứ ước ao mãi một lần thưởng trà đối ẩm trong Sảng đình giữa mùa trăng chín. Dưới ánh bạc dịu dàng phả tan trên mặt nước, ta uống thanh tao dâng lên chứa chan chén tang bồng hòa sắc nguyệt đương rơi nhẹ trên những tán thông. Nay, ta được chén mây về trong mắt là một ân huệ ấm nồng trên cuộc lữ đông. Túy Vân, ta tỉnh thức một phần huệ trong mình, như bắt gặp trăng báu cất chứa trong bình lưu ly. Túy Vân, ta nhặt thanh tịnh đầy bình rồi cùng neo mái chèo của mây theo vào núi xa. Mai về phố thị, chân ta bước mà lòng vẫn còn say mây trắng thuở nào trên ngọn linh sơn tuyết trinh trấn hải.
L.V.T.G
(SDB16/03-15)
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Chính sử triều Nguyễn chép mộ vua Quang Trung được táng ở vùng Nam sông Hương và đã bị quật phá.
VÕ VINH QUANG
Thanh Bình từ đường, thờ tổ nghề hát bội của triều Nguyễn, tọa lạc ở kiệt 281 đường Chi Lăng, thành phố Huế là một địa điểm quan trọng trong truyền thống văn hóa nghệ thuật của đất Cố đô.
CHÂU THU HÀ
Trong những năm qua, xây dựng văn hóa doanh nghiệp (VHDN) đã và đang được các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng quan tâm thực hiện.
PHƯỚC VĨNH
Nói đến những tiềm năng phát triển của Huế là nói đến các yếu tố thiên nhiên, lịch sử văn hóa, trong đó có yếu tố sông, núi, cỏ cây và con người; là nhắc đến những bài thơ sâu lắng, những giai điệu mượt mà…
LGT: Cuốn sách Florette ou la rivière des parfums của tác giả T. Trilby(*) được dịch sang tiếng Việt với nhan đề Chuyện bên dòng sông Hương(**). Bối cảnh câu chuyện xảy ra ở Huế và vùng phụ cận vào thập niên 1920 của thế kỷ XX.
LƯU TRỌNG VĂN
(thực hiện)
PHAN THUẬN AN
Nghệ thuật cung đình là những loại hình nghệ thuật gắn bó thiết thân với sinh hoạt tinh thần và vật chất của giới cầm quyền tại kinh đô dưới các triều đại quân chủ ngày xưa.
PHAN TÂN
Trong năm 2018 vừa qua, ngoài kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh cũng đã triển khai những chương trình đột phá, công trình trọng điểm, tập trung lãnh đạo, tạo tiền đề, động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển theo hướng nhanh, bền vững. Các chương trình này có ý nghĩa hết sức quan trọng, tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương…
NGUYỄN VĂN CƯƠNG - NGUYỄN VĂN KHÁNH
Trong chuyến đi điền dã khảo sát di tích tại khu vực Phường Thủy Xuân, TP Huế. Chúng tôi tình cờ phát hiện một di chỉ cổ nằm lẫn khuất trong những tán cây rậm rạp trên vườn đồi của làng Dương Xuân thượng trước đây. Vạch lá dò dẫm tìm vào, chúng tôi mới nhận ra nơi mình đặt chân đến chính là một Văn Miếu, nơi thờ phụng vị Thánh về Văn, người mà được hậu thế tôn vinh là Vạn thế Sư biểu (người thầy của muôn đời), Đức Khổng Tử. Ngôi miếu nằm lọt thỏm trong những tán lá, bụi cây.
HỒ VĨNH
Đại bác là một từ dùng chung cho tất cả các loại trọng pháo hay súng lớn. Tiền thân của chúng là những máy ném đá (Thạch pháo) ra đời cách đây 1.000 năm. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII ở Việt Nam đã xuất hiện các loại pháo bằng đồng và pháo bằng sắt mà ngày nay chúng ta thường gọi là súng thần công.
KIM THOA
Chè bán ban ngày, ban đêm. Chè gánh, chè xách, chè ăn trên bờ, chè thưởng thức dưới đò. Huế bán đủ thứ chè, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, nhưng ít thấy chè hột sen.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Hoàng tử Cảnh (1780 -1801) là con trưởng của vua Gia Long. Trong thời gian chống nhà Tây Sơn, hoàng tử Cảnh đã theo Bá-đa-lộc sang Pháp cầu viện cho họ Nguyễn. Hoàng tử Cảnh theo Thiên chúa giáo và được giám mục Bá-đa-lộc rất thương yêu.
THƠM QUANG - THANH BIÊN
Trong khối tài liệu hiện đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV có khá nhiều tư liệu liên quan đến trường Bách Công xưa (tức trường Cao đẳng Công nghiệp Huế ngày nay). Bên cạnh tài liệu tiếng Pháp thuộc phông Tòa Khâm sứ Trung kỳ, chúng tôi cũng xin được cung cấp thêm một số thông tin quan trọng về trường Bách Công xưa được ghi chép trong các bộ chính sử của triều Nguyễn.
NGUYỄN THÁI SƠN*
Đồng chí Nguyễn Chí Diểu (1908 - 1939) là nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam.
TRẦN ĐÌNH HẰNG - LÊ ĐÌNH HÙNG
Trải qua nhiều vấn nạn của thiên tai, địch họa mà đến nay, tài liệu nghiên cứu về thời chúa Nguyễn Đàng Trong rất hiếm hoi. Vì vậy, tài liệu lưu trữ từ gia tộc sẽ góp phần thiết thực để soi rọi một số chi tiết bổ sung cho chính sử.
LÊ VĂN LÂN
Huế là đô thị không chỉ trong nước mà cả thế giới tôn vinh với nhiều danh hiệu cao quý. Nhưng đứng trước những danh hiệu này, bản thân người Huế cũng thấy đang còn nhiều khoảng cách lớn.
LÊ QUANG THÁI
Ngày xuân còn dài, xin kể vài mẫu chuyện dê tiêu biểu trên đất kinh kỳ văn vật cốt chỉ mua vui chốc lát trong hương vị của ngày Tết cổ truyền.
PHAN THUẬN AN
Cũng như các triều đại quân chủ khác trong lịch sử Việt Nam, triều đại nhà Nguyễn (1802-1945) đã lập ra tại kinh đô một cơ quan chuyên trách về y tế, gọi là Thái Y Viện, để chăm lo sức khỏe cho hoàng gia và điều hành công việc chữa bệnh cho mọi người trong nước.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Đồi Dương Xuân ở nam sông Kim Trà (sông Hương) từng có phủ Dương Xuân là mặc định nhưng vì đồi lại lớn rộng, có nhiều phần nhấp nhô theo phương thẳng đứng, uốn éo theo bình đồ nên đồi có nhiều gò, cồn.
TRẦN ANH SƠN
Huế mà chúng tôi nhắc đến ở đây là xứ Huế ngày xưa, thuở còn là "Đô thành Thuận Hóa” của Chúa Nguyễn.