PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO
Chúng tôi đến thăm nghĩa trang Trường Sơn khi sắc thu còn in dấu xanh ngăn ngắt trên mặt hồ mặc cho những đám mây như mọng nước trong tiết thu mát mẻ. Mặt nước hồ nơi đây phẳng lặng như tấm gương đang soi bóng những hàng cây im lặng.
Nghĩa trang Trường Sơn - Ảnh: internet
Khác hẳn những ngày tháng Bảy hàng năm với nườm nượp những lớp người đến viếng nghĩa trang. Bây giờ đã cuối thu, không gian yên tĩnh một cách lạ lùng. Mùi hương trầm lan tỏa và đan xen như quấn quýt vào những ngôi mộ đứng dăng dăng thẳng hàng với hương thơm dịu nhẹ.
Tôi chợt nhớ đến bốn câu thơ của Giáo sư anh hùng lao động Vũ Khiêu đã viết đề tặng trên thân Tháp Chuông được đặt trang trọng nơi nghĩa trang Trường Sơn:
Bát ngát Trường Sơn hồn liệt sĩ
Dạt dào Đông Hải khí anh linh
Ba hồi chiêu mộ rung tâm trí
Muôn dặm non sông nặng nghĩa tình
Tiếng chuông ấy vẫn như ngân lên vào lúc này giữa buổi trưa vắng lặng, nhìn xung quanh bốn bề chẳng có bóng dáng một người khách nào từ xa đến đây vào lúc này ngoại trừ đoàn chúng tôi và những người quản trang. Không gian nơi đây đậm màu u tịch càng trở nên im ắng lạ thường.
Mỗi bước đi trong nghĩa trang, bàn chân lại chạm nhẹ vào vùng đất thiêng, ta dường như nghe được cả tiếng hành quân năm xưa, tiếng nói cười và tiếng thì thầm tự nơi nào xa xăm vọng lại với tiếng gió rì rào và tiếng thở khe khẽ của cây lá xung quanh. Có lẽ bản hòa ca trầm hùng ấy tại nơi uy linh này do thiên nhiên và con người tạo ra để vỗ về hát ru hàng vạn linh hồn liệt sĩ Trường Sơn đã yên nghỉ trên mảnh đất Quảng Trị thiêng liêng này.
Giữa màu xanh ngút ngát của cánh rừng trải quanh hai bên con đường dẫn vào nơi nghĩa trang Trường Sơn, những cây bàng nằm kề ngay bên cổng vào ở phía sau của Nghĩa trang đang rực lên một màu đỏ ối. Màu bàng lá đỏ gợi cho ta nhớ về Hà Nội với những ca khúc trữ tình của mùa thu trong cảm thức mơ hồ nhạc Trịnh. Còn những cây bàng lá đỏ ở nơi đây lại nhắc ta về những mùa thu đã đi qua và mùa thu nay dường như cũng đang chín đỏ với vẻ đẹp đầy u buồn giữa lòng thiên nhiên và con người. Cây bàng đẹp như một bức tranh lửa biết chuyển động bởi nhiều sắc màu của lá và thân cành. Đây có thể coi như một kiệt tác của thiên nhiên được phối bởi những gam màu đỏ ối, nâu sậm, vàng tươi… Chúng được đan xen với cả sắc xanh nõn nà của màu búp lá bàng tươi non dưới màu nắng thu trải vàng ươm như rót mật vào không gian với màu trời xanh biêng biếc giữa thu.
Tôi đã được nghe nói về cây Bồ Đề thiêng được trồng ở ngay cổng vào của nghĩa trang luôn tỏa bóng xanh mát quanh năm ở đây với nhiều giai thoại linh thiêng về Trường Sơn và những người liệt sĩ nằm đây. Còn những cây bàng lá đỏ đặc biệt này nằm kề ngay phía sau khu tưởng niệm thì có lẽ ít ai nhắc tới. Trong không gian tĩnh lặng nơi đây, cây bàng cũng trở nên đặc biệt và có chút gì bí ẩn hơn với những chiếc lá bàng bóng bẩy có dáng tròn trịa như muôn vàn chiếc quạt con xinh xắn đang vẫy tay gọi gió về.
Những chiếc lá bàng trong nắng đang rực lên một màu nâu đỏ như vẫn còn tiếc nuối sự thanh xuân mỡ màng và cuộc đời quá ngắn ngủi của chúng nên chưa nỡ lìa cành. Chúng đang xào xạc trong gió để hòa tấu với thiên nhiên và rừng xanh nơi đây bản nhạc hay cuối cùng về mùa thu lá đổ trải thảm vàng vào cánh rừng thiêng. Thân cây dường như cũng rung lên và khắc khoải hòa nhịp. Có lẽ ngay cả tấm thân tưởng như vững chãi kia với tán cành lan tỏa của bàng cố gồng lên cũng không thể níu giữ được những chiếc lá đỏ nâu và óng ả đang sắp sửa lìa cành rồi bỗng chốc tan tác theo gió. Một vẻ đẹp nao lòng của mùa thu và đất trời.
Những chiếc lá bàng nâu đỏ rơi rơi như tạc vào không gian một bức tranh “Thu Vàng” sống động và đầy bí ẩn ở nơi nghĩa trang này. Dưới gốc bàng có những chiếc lá đã khô, chiếc nằm cong queo, chiếc cuốn theo chiều gió xào xạc. Tôi cúi nhặt những chiếc lá bàng vừa rơi và nâng niu xếp chúng trên tay như nâng niu những ký ức chợt vụt bay qua. Có một vài chiếc lá bàng đỏ mới lìa cành nhưng vẫn còn rất đẹp và khá nuột nà. Có thể chúng nuối tiếc sự sống ngắn ngủi của mình chăng mà chợt bừng lên sức sống và trên từng phiến lá còn ánh lên những sắc nâu đỏ đầy ma lực. Nhớ lại nhiều năm trước đây, trên những con phố cổ, ngay cả khi Hà Nội vào những mùa thu lãng mạn nhất, bạn cũng khó có thể tìm thấy một cây bàng lá đỏ nào có dáng dấp và sắc màu đẹp lung linh đến thế.
Ngồi dưới tán lá bàng tỏa bóng và ngắm sắc đỏ của chúng lại nhớ về những người lính Trường Sơn năm nào. Các anh chị đã ra đi mãi mãi và nằm yên nghỉ nơi đây giữa màu xanh của cây rừng. Đất nước và dân tộc ta luôn biết ơn các anh chị và không thể quên những con người đã hy sinh trên dải Trường Sơn - một dải đất miền Trung gian khó và hiên ngang với những chiến tích đầy máu lửa năm nào. Các anh chị sẽ còn sống mãi với mùa thu và những trang sử hào hùng của dân tộc. Tôi chợt liên tưởng đến hình ảnh những người lính nơi trận mạc đã hy sinh suốt dọc dải Trường Sơn và nay đã “đi về miền cát bụi phía trời xa”. Khi nhắc tới các anh, tôi luôn nhớ đến công ơn và hình ảnh hào hùng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người chỉ huy xuất chúng và điều binh khiển tướng tài ba vừa mới qua đời. Chợt nhớ đến hình ảnh của Ông cùng những người lính đã nằm xuống trên dải đất miền trung trong bài thơ “Vị Tướng già” của nhà thơ quân đội Anh Ngọc năm xưa đã đi vào lời ca hôm nay:
“Cõi nhân thế mây bay và gió thổi
Bầy ngựa chiến đã chân chồn gối mỏi
Đi về miền cát bụi phía trời xa”.
Hình ảnh của các anh và Vị Tướng Già sẽ còn sống mãi với quê hương đất nước qua ca khúc “Còn mãi với mùa thu”. Được biết ca khúc này, vừa mới được nữ nhạc sĩ Quỳnh Hợp sáng tác ngay sau ngày mất của Đại tướng. Có lẽ cuộc đời binh lửa và huyền thoại về Vị Tướng Già cùng tên tuổi của ông còn mãi mãi gắn liền với cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc và gắn liền với số phận của hàng vạn những người lính trẻ như các anh đang nằm yên nghỉ nơi đây.
“Một chân ông đã đặt vào lịch sử
Một chân còn vương vấn với mùa thu”
Giữa khu mộ liệt sĩ nằm bốn bề giăng giăng, cây bàng mùa thu vẫn đỏ ối sắc lá và ngời lên trong nắng những ánh vàng chen lẫn ánh nâu đượm màu cổ tích. Ta chợt nhận ra một vẻ đẹp kiêu sa và lộng lẫy của mùa thu và nỗi buồn nhân thế cũng chợt dâng dâng trong lòng. Một điều thật khó diễn tả ở ngay tại chốn linh thiêng này. Có lẽ chưa bao giờ ta nhận thấy sự mong manh giữa sự sống và cái chết lại gần đến thế. Cũng chưa bao giờ ta nhận thấy vẻ đẹp huyền ảo và u buồn của mùa thu đang ngời ngợi hiện lên tại chính nơi nghĩa địa này. Nơi đây có biết bao người lính trẻ đã hy sinh xương máu cho khát vọng hòa bình của dân tộc những năm chống Mỹ. Họ đã nằm lại mãi mãi nơi đây và ghi dấu những bước chân trên dải Trường Sơn với một thời lịch sử oai hùng của dân tộc Việt Nam.
P.T.P.T
(SH306/08-14)
LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.
MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).
NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.
VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.
DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.
NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )
TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.
ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.
PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.
NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư hoàn cảnh”.
ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.
DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...
TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!
LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.