Nghĩ về ba bộ phận phê bình văn học hiện nay

15:53 05/04/2010
TRẦN ĐÌNH SỬTrong sách Phê bình văn học thế kỷ XX tác giả Giăng Ivơ Tađiê có nói tới ba bộ phận phê bình. Phê bình văn học ta hiện nay chủ yếu cũng có ba bộ phận ấy họp thành: phê bình báo chí, phê bình của các nhà văn nhà thơ và phê bình của các nhà phê bình chuyên nghiệp.

GS Trần Đình Sử - Ảnh: sgtt.com.vn

Phê bình của báo chí có cội nguồn xa xưa là phê bình  miệng, tiến hành trong các phòng khách sang trọng trong nhà trường. Ngày nay phê bình miệng vẫn tiếp tục trong các phòng trà quán cà phê trên lớp học. Sự phát triển của báo chí làm cho lối phê bình miệng có thêm đất dụng võ với các thể loại phỏng vấn, tọa đàm, giao lưu ý kiến ngắn, trao đổi, điểm sách. Chức năng của phê bình miệng và phê bình báo chí là đưa tin, thông báo, nhận định chung, tạo không khí, quảng cáo, bày tỏ quan điểm. Thời gian qua trên văn đàn ta phê bình báo chí là bộ phận phê bình khá sôi động. Sức mạnh của bộ phận phê bình này là có thể tạo ra sự kiện văn học, gây sự, gây dư luận. Ai đó thường có ý nghĩ rằng phê bình hiện giờ im hơi lặng tiếng, vắng vẻ đìu hiu, có thể đúng ở bộ phận phê bình khác, chứ không hoàn toàn đúng với bộ phận này. Ưu điểm của phê bình báo chí là nhanh, nhạy, kịp thời, nhưng nhược điểm đi liền với nó là nhiều khi hời hợt, xô bồ vội vàng, thiếu phân tích sâu sắc, thấu đáo, chín chắn, nhiều khi có tính chất ap đặt. Dung lượng của bài phê bình báo chí cũng thường ngắn, không cho phép trình bày chi tiết. Nhiều cuộc trao đổi đã diễn ra nhưng ít cuộc có đưọc những kết luận có sức thuyết phục. Có những cuộc phải dừng lại nửa chừng. Tuy vậy, với sức mạnh áp đảo, kịp thời, phê bình báo chí đang là bộ phận thu hút sự tham gia ngày càng đông của các cây bút phê bình trong nước: các nhà phê bình chuyên nghiệp, các nhà văn, nhà thơ. Nhìn tổng thể có thể nói phê bình văn học đang được "báo chí hóa" mạnh mẽ. Nếu sự thể này đi tới chỗ phê bình báo chí độc tôn thì không biết nên vui hay nên buồn.

Phê bình nghệ sĩ là phê bình của các nhà văn, nhà thơ. Các nhà văn nhà thơ hay gợi nhớ những tác giả, tác phẩm bị bỏ quên, bàn luận những điều tâm đắc, những câu những chữ gây ấn tượng. Đặc biệt các nhà văn, nhà thơ thường mượn phê bình để thổ lộ tâm sự, trình bày quan niệm và đặc biệt là quan điểm sáng tác, hoài bão văn học. Trước đây các nhà văn Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Nguyễn Minh Châu thường viết những bài như thế. Nay lực lượng các nhà văn nhà thơ viết phê bình cũng rất nhiều, hầu như chẳng ai là không viết, nhưng xu thế báo chí hóa quá mạnh, cho nên bản sắc của phê bình nghệ sĩ ít được bộc lộ đầy đủ. Bây giờ rất hiếm khi thấy các nghệ sĩ bàn về nghề, về thể loại, về ngôn từ, về phong cách. Có nhà văn viết cả một tập chuyện nghề mà chẳng thấy mấy bóng dáng nghề nghiệp, chỉ thấy chuyện đời. Phải chăng nghệ sĩ ngày nay ít suy nghĩ về nghề nghiệp? Một số nhà văn nhà thơ tham gia hàng ngũ phê bình báo chí, và lập tức họ chỉ còn là cây bút báo chí thực thụ, không còn thấy bản sắc phê bình của nghệ sĩ nữa.

Phê bình chuyên nghiệp - đây là nói theo tiêu chí phân loại, chứ nước ta đã có phê bình chuyên nghiệp chưa, có như thế nào lại là câu chuyện khác - tôi muốn nói bộ phận làm phê bình mà không phải nhà báo, cũng không phải là nhà thơ hay nhà văn xuôi - thường phê bình theo tiêu chí khoa học, lấy sự phân tích khách quan làm căn cứ đánh giá, thường vận dụng các thao tác khoa học, các quan điểm lý luận nào đó. Có người gọi đó là loại phê bình "đại học", phê bình "hàn lâm". Các nhà báo thường chê loại phê bình này là nặng nề, dài dòng. Các nhà văn, nhà thơ lại chê loại phê bình này khô khan, ít chất văn, đọc nhức đầu. Có khi họ trách các nhà phê bình quá khen người này, ít chú ý người kia, người yêu kẻ ghét đủ loại. Tuy nhiên dù cho không phải bao giờ cũng được yêu mến, nhưng bộ phận phê bình này thực hiện những chức năng không thể thay thế: một là, nó làm cho toàn bộ văn học (bao gồm cả văn học quá khứ) luôn luôn có được tính hiện thực, tính thời sự. Hai là do am hiểu tác phẩm, tác giả, thời đại một cách toàn diện, do am hiểu các khoa học nhân văn cho nên bộ phận phê bình này có thể cung cấp những cách đánh giá chuẩn xác nhất, có tính nghề nghiệp nhất, khoa học nhất. Như các chuyên gia côn trùng học, những người sưu tầm, nghiên cứu đủ các loại bướm, đắm say với các vẻ đẹp muôn màu của chúng, nhưng khi miêu tả, phân tích, họ không ganh đua vẻ đẹp với lũ bướm, mà cốt nghiên cứu đối tượng một cách chuẩn xác và toàn diện - nhà phê bình chuyên nghiệp không thi thố tài dùng hình ảnh với nhà văn nhà thơ, mà theo đuổi sự chuẩn xác và toàn diện. Tất nhiên đem nhiều thuật ngữ xa lạ, bắt chước để lòe dọa người đọc là một tác phong tầm thường, nhưng sử dụng những thuật ngữ mới mẻ, khoa học một cách thích đáng lại là hết sức cần thiết, nếu muốn bày tỏ một quan niệm phê bình sáng tỏ, mạch lạc. Chính bộ phận phê bình này đánh dấu trình độ phát triển của phê bình văn học theo hướng chuyên nghiệp hóa, tức là trình độ chuyên sâu. Một nền phê bình văn học mà bộ phận phê bình này ít phát triển hoặc phát triển chậm thì khó lòng mà đánh giá cao nền phê bình ấy. Bộ phận phê bình này hiện nay đang thể hiện chủ yếu ở các trường đại học. Cùng với việc đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ nó đang được tập dượt, thể nghiệm. Tuy nhiên có chất lượng cao để phản ánh trên báo chí thì chưa nhiều. Nhiều cây bút vốn làm phê bình chuyên nghiệp nay chuyển sang viết báo hay nghiên cứu văn hóa. Những bài phê bình nghiên cứu đang thưa vắng dần trên các mặt báo và đó là một hiện tượng đáng báo động.

Nhìn chung cả nền phê bình văn học hiện nay đang có xu hướng báo chí hóa mạnh mẽ, các bộ phận  phê bình nghệ sĩ và phê bình chuyên nghiệp đang co lại hay biến dạng. Có một số nhà phê bình đang vươn lên chuyên nghiệp rất có tương lai, nhưng tiếc thay họ lại ít được chú ý. Làm thế nào để điều chỉnh sao cho mỗi bộ phận phê bình được phát triển bình thường, phát huy sở trường, chức năng riêng đang là vấn đề đặt ra cho cả giới văn học chúng ta.

T.Đ.S
(135/05-00)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".