Nghĩ thêm từ “Mạ tui”

10:00 31/10/2018

NGUYỄN KHẮC PHÊ    

Nhiều người đến dự buổi giới thiệu Tự truyện “Mạ Tui” do Tạp chí Sông Hương và Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán phối hợp tổ chức không biết Nguyễn Viết An Hòa (NVAH) là ai, nhưng khi Ban Tổ chức cho hay đó là bút danh trên Facebook (Fb) của thầy giáo Nguyễn Viết Kế, thì đều vui vẻ thốt lên: “À…”.

Trong giáo giới và nhiều thế hệ học sinh, sinh viên - ít ra là ở Huế - Nguyễn Viết Kế là một tên tuổi được kính nể. Từ năm 1974, anh đã là Chủ tịch Ban Đại diện sinh viên Đại học Sư phạm Huế; và 35 năm (1977 - 2012) anh là người thầy dạy văn được hàng chục ngàn học sinh trung học yêu mến, ngưỡng mộ - từ Pleiku Tây Nguyên xa ngái đến các trường Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ (Huế)… Hơn thế, thầy Kế là người có lắm… “tài”, hăng hái hoạt động đoàn thể, biểu diễn văn nghệ, nên có nhiều “fan”, đến mức học trò ở Tây Nguyên làm đám cưới, cũng mời bằng được thầy Kế vào “dẫn chương trình.” Trong Tự truyện, bên cạnh những “tổng kết” với rất nhiều thành tích về giáo dục, thầy đã dẫn chương trình trên 300 đám cưới!

Nhưng trong làng văn, NVAH thuộc hàng… “cây bút mới”, tuy anh đã xuất bản một số sách như “Kể chuyện các đời vua nhà Nguyễn” (sưu tầm - biên soạn, Nxb. Đà Nẵng, 1994), “Hướng dẫn sinh hoạt ngoài giờ” (Nxb. Thanh niên, 2001), “Luyện thi Tú tài Văn” (viết chung, Nxb. Thuận Hóa, 1996), “Nhịp chày thác nước” (Thơ in chung, Sở VHTT Gia Lai - Kontum, 1980). Với một cuộc đời phong phú như thế, nên Tự truyện tuy mang tên “Mạ tui”, nhưng ôm chứa rất nhiều số phận, nhiều điều gợi chúng ta suy ngẫm về thế sự, về đạo làm người.

1. Hiện đại chuyên chở “cổ tích”

Có lẽ cũng nên nói đôi điều về “xuất xứ” tác phẩm. Thiên hạ làm văn từ Fb không hiếm, nhưng tác phẩm văn học đầu tay của thầy giáo NVAH trước ngưỡng cửa “thất tuần” xuất hiện gần như 100% nhờ có Fb vẫn đáng gọi là độc đáo. Khi biết người mẹ sống thọ hơn một thế kỷ đang ở bên cửa tử, tác giả đã miệt mài qua 700 đêm, viết nên 100 số “Mạ tui” đưa lên Fb và đúng vào lễ Vu Lan báo hiếu PL 2562 - 2018, đồng thời là Lễ Tiểu tường (1 năm Mạ đi xa), cuốn sách “Mạ tui” được giới thiệu trân trọng với đông đảo độc giả ở Huế. Nhà văn Trần Thùy Mai - người cùng được đào luyện từ “lò” Đại học Sư phạm Huế trước 1975 như NVAH - trong lời “Tựa” cho tác phẩm đã viết: “Tự truyện Mạ tui này là một lăng mộ tinh thần vô giá mà NVAH dâng cho mẹ. Ít người con nào làm được như anh…”.

Ở một khía cạnh khác, qua trường hợp “Mạ tui”, chúng ta có cách nhìn đúng đắn hơn về Fb nói riêng và “mạng xã hội” nói chung. Đã từng có không ít chỉ trích Fb và mạng xã hội hay tung tin thất thiệt, nhảm nhí, gây “nhiễu” dư luận…; nhưng với “Mạ tui”, công nghệ hiện đại đã “chuyên chở” ngon lành những câu chuyện “cổ tích”, ít ra đã truyền đến hàng ngàn độc giả khắp mọi miền những vẻ đẹp truyền thống của dân tộc đang có nguy cơ bị tàn phá bởi lối sống đua chen chạy theo hưởng thụ vật chất. Với “Mạ tui”, chúng ta hiểu ra, Fb cũng như “mạng xã hội” và công nghiệp hiện đại không có “lỗi” gì. Vấn đề là con người sử dụng chúng phải có bản lĩnh, có cốt cách văn hóa…

2. Một con người bình thường vẫn chứa đựng một phần lịch sử

Sau khi đọc các hồi ký và tự truyện của Phan Thị Thu Quỳ (“Áo tím đồi sim”), Bảo Cường (“Sau một cuộc đời”), Trương Thị Thu Cúc (“Những người muôn năm cũ”), Song Cầm (“Cánh chim trong bão tố”), tôi đã nêu vấn đề “Tự truyện không chỉ dành cho người nổi tiếng”. Với “Mạ tui” của NVAH, một lần nữa, điều này được khẳng định. Tuy vậy, trong cuộc tọa đàm “Hồi ký - chuyện đời, chuyện người và trào lưu xã hội” do Sống - thương hiệu sách tác giả Việt của Alpha Books tổ chức hồi tháng 6 năm 2018 tại Hà Nội mà sau đó nhiều báo chí đưa tin, xem ra các diễn giả và dư luận chỉ chú ý đến tự truyện của người nổi tiếng, những người làm nghệ thuật trong showbiz... có nhiều độc giả nhưng cũng từng bị chỉ trích về tính chân thật và nhất là các tình tiết xúc phạm đến những người xung quanh. Những điều đó cũng như những cuộc tình “tay ba”, “tay tư” gây scandal là có thật, chủ yếu diễn ra trong giới nghệ sĩ, diễn viên; tự truyện của họ chủ yếu đáp ứng sở thích những kẻ tò mò hậu trường các “ngôi sao”, chứ không hẳn có giá trị về văn chương, càng không nêu được các vấn đề xã hội, lịch sử của đất nước.

Gần đây, chính một số hồi ký, tự truyện của những người chưa nổi tiếng, không thuộc giới “showbiz” lại đạt được những giá trị đó, tiêu biểu như “Lính bay” của Phạm Phú Thái (viết về các chiến sĩ không quân) và “Chuyện lính Tây Nam” của Trung Sĩ… Tôi không có ý so sánh “Mạ tui” với hai tác phẩm vừa dẫn, nhưng có thể gọi đây là “dòng” tự truyện viết từ lớp người “cơ sở”, nền tảng của xã hội (thời M. Gorki thì gọi là “Dưới đáy”) - những trang sách không nhiều “mầu mỡ” như của giới “showbiz”, cũng thiếu tầm “vĩ mô”, nhưng đầy ắp chi tiết chân thật của cuộc sống, của lịch sử.

Người mẹ trong “Mạ tui” là một con người bình thường - rất bình thường, chỉ có “chức vụ” duy nhất là mẹ của chín đứa con, suốt năm tháng chạy chợ “đầu tắt mặt tối, đòn gánh đè vai… bàn tay chai sạn, bàn chân nứt nẻ vì nắng mưa gió chướng”; vậy mà qua cuộc đời bà và những người con - kể cả mấy người “con-dâu-hụt” - cũng đều là người bình thường, chúng ta như được gặp lại, được sống lại những năm tháng đầy biến động của dân tộc. Nói cách khác, những con người bình thường trong “Mạ tui” vẫn chứa đựng một phần lịch sử.

Trong nhiều năm, dân tộc ta liên tục phải trải qua chiến tranh nên nói đến “lịch sử”, hầu như ai cũng nghĩ là phải có cảnh bom rơi đạn nổ, có các sự kiện đấu tranh; trong “Mạ tui” cũng có những điều đó (xin trình bày phần sau), nhưng “lịch sử” còn là việc gìn giữ nguồn cội, truyền thống văn hóa một vùng đất, nền nếp gia phong… Trong cuộc đấu tranh, người mẹ trong “Mạ tui” tưởng như bà ở ngoài dòng chảy lịch sử hào hùng và bi tráng của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ - ngoại trừ một lần vào dịp Tết Mậu Thân 1968, bà phải ôm con đi sơ tán kèm với nắm rơm ủ ấm cho mấy mẹ con. Vậy nên “công lao” lớn nhất của bà trong giai đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc vừa qua là nuôi dưỡng, giáo dục đàn con, xây dựng một gia đình “ngũ đại đồng đường” theo khuôn phép của một “tín đồ Phật giáo thuần thành; từ nhỏ Mạ đã theo bà ngoại đi chùa làng An Hòa tụng kinh niệm Phật…. Đã thọ “thập thiện giới ăn chay một tháng mười ngày…”; nhờ đó, bà đã đưa gia đình vượt qua bao sóng gió, cùng tiến bước với xã hội cho đến ngày hôm nay. Đây là một sự nghiệp không thể xem thường, thậm chí là quan trọng, khi chúng ta nhận ra vấn đề giáo dục trong gia đình ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc xây dựng một xã hội tốt đẹp, khi không ít người “bất ngờ” thấy ra nhiều khía cạnh “tích cực” trong đời sống xã hội ở Lào và Miến Điện - hai nước xem đạo Phật như là “quốc giáo”...

Đọc mấy trang hồi ức của Nguyễn Viết Huy - cháu nội đích tôn của bà - viết ở phần cuối cuốn sách, nhắc lại những bài học về sự tiết kiệm, về sự nhường nhịn mà bà răn dạy con cháu hàng ngày, chúng ta càng thấy giá trị “công lao” của người mẹ bình thường ở làng An Hòa phía Bắc thành Huế vừa ra đi ở tuổi 104… xuân!

3. Chính trị, Tôn giáo, Tình yêu và số phận con người

Tự truyện của NVAH dành khá nhiều trang viết về những cuộc tình dang dở của mình khiến “Mạ tui” thêm sức cuốn hút bạn đọc. Nhà văn Trần Thùy Mai, trong lời “Tựa” có nhận xét: “Thật là “trong cái rủi có cái may”, sự lận đận tình duyên của anh, làm cho mẹ anh âu lo thấp thỏm suốt chục năm trời, nay lại trở thành kho vốn liếng để anh xây dựng nên hàng trăm trang viết hấp dẫn…”.

Điều tôi quan tâm hơn là các chuyện tình trắc trở của anh không phải để “câu khách”, càng không phải kiểu tình yêu chụp giật hay buông thả, chạy theo danh lợi của không ít người trong “giới showbiz” từng bị dư luận chỉ trích; tình yêu ngang trái của NVAH không thiếu vẻ đẹp mà chính tác giả gọi là “Mối tình thơ” và “Chuyện tình xuân”, nhưng rồi bất thành vì sự trớ trêu của số phận. Đó là một cách nói ngắn gọn thôi, còn những chuyện tình tan vỡ của NVAH không chỉ khiến người trong cuộc và bà mẹ già của anh buồn đau mà còn gợi chúng ta nghĩ đến bao điều về thân phận con người trước những đổi thay, về sự ràng buộc tình yêu đôi lứa vì tín ngưỡng tôn giáo… Đã có nhiều tác phẩm viết về sự cô đơn của con người trước những va đập của lịch sử; với các trường hợp của NVAH, chúng ta xót xa vì cảm thấy các “guồng máy” hầu như không chút bận tâm trước sự tổn thương, đổ vỡ của mỗi số phận; và trong hoàn cảnh đó, con người tỏ ra thật là yếu ớt. Các học trò yêu đã trách thầy Kế yếu đuối và chính tác giả cũng tự nhận mình không đủ mạnh mẽ để vượt qua trở lực. Nhưng có ai đó đã nói rằng vẻ đẹp thường yếu ớt (như một bông hoa hồng, một tiếng đàn thánh thót trong đêm…) rất dễ bị “tổn thương”; mà con người là một vẻ đẹp - tác phẩm kỳ diệu của tạo hóa - con người đang sống như trong mơ với mối tình đẹp, càng dễ bị xiêu đổ. Giá như mọi người hiểu điều đó và biết quan tâm, biết gượng nhẹ khi buộc phải đụng chạm đến mỗi số phận con người!

Trên thế gian, không ít người chỉ một lần thất tình đã tìm đến cái chết, NVAH thì “quá tam ba bận” phải “giương cờ trắng” trong cuộc tìm con dâu cho mẹ. Lần đầu, với một nữ sinh Đồng Khánh, vào lúc “giao thời” của lịch sử Việt Nam: Năm 1974, chàng vay tiền mẹ nàng để tổ chức Đêm Sư phạm hàng năm vào dịp Tết, dự tính khi nhận học bổng sinh viên sẽ trả. Nhưng ai ngờ, sau 26/3/1975, “Huế giải phóng và… học bổng sinh viên cũng...” mất luôn. Ban Đại diện thì chỉ mình chàng ở lại Huế “chịu trận”. Thế là Mạ phải “bán gần hết tra lúa được chừng gần một cây vàng” cho con trả nợ. “Làm cái Ban đại diện chi cho khổ cả nhà rứa con ơi!... Trời ơi là trời, trời không có mắt!”

Quả là chỉ có kêu… trời, chứ biết hỏi ai? Biết trách ai bây chừ!

Lần thứ hai, với người đẹp làng Ngọc Anh (Phú Vang) mặc cho chàng “xách ba lô cơm đùm gạo bới… đi nhận nhiệm sở ở vùng đất bazan có cúc quỳ vàng”. Mối tình nồng thắm bất chấp khoảng cách không gian và không “môn đăng hộ đối” - nàng là Tôn Nữ (dòng dõi Tôn Thất), đặc biệt hơn nữa là thân phụ nàng đang phải “cải tạo” ở Bình Điền! Vậy mà đôi bên đã vượt qua bao nghi ngại, cho làm lễ ăn hỏi, nhưng sự đời, ai học hết chữ “ngờ”! Đúng lúc chàng và nàng tính ngày làm lễ cưới thì tin như “sét đánh ngang tai”: Chính quyền “quyết định trưng thu ngôi nhà, vườn tược... để lại căn bếp và 100 mét vuông cho gia đình, mẹ em đã ngất xỉu…”. Thế là tan nát một mối tình đẹp vì “với ba em, tui là “cán bộ Đoàn, người của cách mạng”... Ta đành phụ nhau em ơi!...”

Cũng chỉ có kêu… trời, chứ biết hỏi ai để phân giải được sự đúng - sai? Biết trách ai đã làm cho đôi trẻ khóc hết nước mắt vì biệt ly bây chừ!

NVAH thì hiểu nghĩa vụ người con trai độc nhất của mẹ, thấy mình có lỗi để mẹ già mãi mong chờ cô dâu hiền, nên dù đang đau đớn vì chia tay nàng Tôn Nữ làng Ngọc Anh đến mức mang bệnh dạ dày, chàng lại “dấn thân” vào cuộc tình lần thứ ba với cô y tá chăm sóc chàng tại bệnh viện. Cũng nhờ đám học trò xứ sở hoa quỳ vàng vun vô và nàng lại là người Huế lên xây dựng Tây Nguyên như chàng. Lo cho con đau ốm và chắc cũng nóng lòng muốn biết mặt con dâu tương lai, người mẹ già cùng bà chị NVAH, không quản đường xa còn đầy trắc trở hồi đó, bới đùm quà bánh lên Gia Lai. Bà chưa kịp mừng thấy cô y tá đẹp người tốt nết thì đã hoảng hồn khi biết cô theo đạo Thiên Chúa và đã ăn “bánh Thánh”. “Trong suy nghĩ rất đơn giản mà nghiệt ngã của Mạ tui, không thể có chuyện kết hôn với người ngoại đạo. Bởi vì Mạ sợ lấy vợ, lấy chồng như thế là bỏ đạo luôn”. Thế là chuyện tình đẹp với Thánh nữ miền cao nguyên tan vỡ ngay sau “Đêm Thánh vô cùng” mùa Giáng sinh năm đó!...

Lại chỉ còn biết kêu… trời, chứ biết hỏi ai, rằng Đạo nào cũng dạy con người điều thiện mà sao nỡ chia lìa đôi lứa đang yêu? Và biết trách ai bây chừ!

NVAH còn “trắng tay” trong cuộc tình lần thứ 4 với nàng “Radio” xinh đẹp, ngâm thơ hay trên Đài Phát thanh Gia Lai. Mà đâu chỉ NVAH, trong “Mạ tui” còn có một số nhân vật chịu đựng mất mát, bất hạnh vì thời cuộc đảo lộn khiến người đọc không khỏi xót xa. Như người chị của tác giả, “mồng 4 Tết Mậu Thân 1968, chồng chị là lính “Xây dựng nông thôn” chế độ miền Nam về nghỉ Tết, sau đó thì đi tải thương cho bộ đội…” rồi mất tích; chị mòn mỏi chờ đợi suốt gần 50 năm, ở vậy nuôi hai cháu khôn lớn và chăm sóc mẹ già… Cặp đôi “thầy trò lớp Toán” cũng có cuộc tình thật đẹp trên đất cao nguyên, nhưng rồi thầy theo gia đình vượt biên, trò mỏi mắt chờ đợi mãi, rồi cũng phải “chọn lấy một trong những người đàn ông theo mình bấy lâu làm chồng dù nàng không yêu. Trái tim nàng rớm máu…”. Gần 40 năm sau, họ tình cờ “gặp lại nhau trong một quán cà phê nổi tiếng giữa phố núi mù sương… trong tiếng hát của ca sĩ Thái Thanh “Còn chút gì để nhớ, để quên”…”.

Nhưng thôi, chỉ 3 cuộc NVAH “lỡ đò” cũng đủ để chúng ta phải suy ngẫm về những bất trắc và sự “vô thường” trên đường đời không phải lúc nào cũng êm đẹp. Một tác phẩm đầu tay, đặt được vấn đề như “Mạ tui” khiến người đọc phải 3 lần “chỉ còn biết kêu… Trời”, là một thành công không nhỏ của NVAH.

*

Còn có thể nêu ra một số điều đáng chú ý trong “Mạ tui”, như cách sử dụng tiếng địa phương khá “đậm đặc”, nhưng không làm độc giả khó hiểu mà lại tạo được “không khí” Huế rõ nét; về kết cấu truyện, Trần Thùy Mai khen tác giả “sáng tạo khi thỉnh thoảng lại cắt lớp thời gian, kéo người đọc về thời hiện tại”, nhưng thực ra, đây là thủ pháp nhiều cây bút đã thực hiện rất giỏi; còn cách “xen kẽ” chuyện “xưa - nay” của NVAH có chỗ chưa… khéo, hơi “xôi - đỗ”, mặc dù trong các “lát cắt” đan xen có những “màn” thú vị như cuộc gặp thầy trò “Có thể nào quên” tại Pleiku sau gần 30 năm xa cách, với chuyến bay trở lại Huế có thể là “độc nhất vô nhị” bằng chuyên cơ H.344 của người học sinh cũ đã thành nhân vật nổi tiếng Bầu Đức (“sếp” Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai) do anh hùng không quân Nguyễn Thành Trung cầm lái!…

Cuộc đời vốn bất toàn, sao có thể đòi hỏi sự toàn bích của một tác phẩm đầu tay, lại sinh thành từ những trang Fb, nhất là khi tác giả phải chạy đua với thời gian để có sách kịp ra vào ngày giỗ đầu của mẹ - mùa Vu Lan báo hiếu. Được biết thành công của NVAH đã đưa “Mạ tui” vượt không - thời gian, đến với nhiều độc giả ở xa Huế và tác giả đã phải “nối bản”. Thật vui khi sách ra mùa Vu Lan được đọc cả… bốn mùa!

Hy vọng sau thành công này, NVAH với sự từng trải trên đường đời sẽ tiếp tục đi xa trên đường văn.

N.K.P
(TCSH356/10-2018)

...............................
Tự truyện Mạ tui của Nguyễn Viết An Hòa, Nxb. Thuận Hóa, 2018.  






 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!