Nghĩ thêm từ “Mạ tui”

10:00 31/10/2018

NGUYỄN KHẮC PHÊ    

Nhiều người đến dự buổi giới thiệu Tự truyện “Mạ Tui” do Tạp chí Sông Hương và Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán phối hợp tổ chức không biết Nguyễn Viết An Hòa (NVAH) là ai, nhưng khi Ban Tổ chức cho hay đó là bút danh trên Facebook (Fb) của thầy giáo Nguyễn Viết Kế, thì đều vui vẻ thốt lên: “À…”.

Trong giáo giới và nhiều thế hệ học sinh, sinh viên - ít ra là ở Huế - Nguyễn Viết Kế là một tên tuổi được kính nể. Từ năm 1974, anh đã là Chủ tịch Ban Đại diện sinh viên Đại học Sư phạm Huế; và 35 năm (1977 - 2012) anh là người thầy dạy văn được hàng chục ngàn học sinh trung học yêu mến, ngưỡng mộ - từ Pleiku Tây Nguyên xa ngái đến các trường Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ (Huế)… Hơn thế, thầy Kế là người có lắm… “tài”, hăng hái hoạt động đoàn thể, biểu diễn văn nghệ, nên có nhiều “fan”, đến mức học trò ở Tây Nguyên làm đám cưới, cũng mời bằng được thầy Kế vào “dẫn chương trình.” Trong Tự truyện, bên cạnh những “tổng kết” với rất nhiều thành tích về giáo dục, thầy đã dẫn chương trình trên 300 đám cưới!

Nhưng trong làng văn, NVAH thuộc hàng… “cây bút mới”, tuy anh đã xuất bản một số sách như “Kể chuyện các đời vua nhà Nguyễn” (sưu tầm - biên soạn, Nxb. Đà Nẵng, 1994), “Hướng dẫn sinh hoạt ngoài giờ” (Nxb. Thanh niên, 2001), “Luyện thi Tú tài Văn” (viết chung, Nxb. Thuận Hóa, 1996), “Nhịp chày thác nước” (Thơ in chung, Sở VHTT Gia Lai - Kontum, 1980). Với một cuộc đời phong phú như thế, nên Tự truyện tuy mang tên “Mạ tui”, nhưng ôm chứa rất nhiều số phận, nhiều điều gợi chúng ta suy ngẫm về thế sự, về đạo làm người.

1. Hiện đại chuyên chở “cổ tích”

Có lẽ cũng nên nói đôi điều về “xuất xứ” tác phẩm. Thiên hạ làm văn từ Fb không hiếm, nhưng tác phẩm văn học đầu tay của thầy giáo NVAH trước ngưỡng cửa “thất tuần” xuất hiện gần như 100% nhờ có Fb vẫn đáng gọi là độc đáo. Khi biết người mẹ sống thọ hơn một thế kỷ đang ở bên cửa tử, tác giả đã miệt mài qua 700 đêm, viết nên 100 số “Mạ tui” đưa lên Fb và đúng vào lễ Vu Lan báo hiếu PL 2562 - 2018, đồng thời là Lễ Tiểu tường (1 năm Mạ đi xa), cuốn sách “Mạ tui” được giới thiệu trân trọng với đông đảo độc giả ở Huế. Nhà văn Trần Thùy Mai - người cùng được đào luyện từ “lò” Đại học Sư phạm Huế trước 1975 như NVAH - trong lời “Tựa” cho tác phẩm đã viết: “Tự truyện Mạ tui này là một lăng mộ tinh thần vô giá mà NVAH dâng cho mẹ. Ít người con nào làm được như anh…”.

Ở một khía cạnh khác, qua trường hợp “Mạ tui”, chúng ta có cách nhìn đúng đắn hơn về Fb nói riêng và “mạng xã hội” nói chung. Đã từng có không ít chỉ trích Fb và mạng xã hội hay tung tin thất thiệt, nhảm nhí, gây “nhiễu” dư luận…; nhưng với “Mạ tui”, công nghệ hiện đại đã “chuyên chở” ngon lành những câu chuyện “cổ tích”, ít ra đã truyền đến hàng ngàn độc giả khắp mọi miền những vẻ đẹp truyền thống của dân tộc đang có nguy cơ bị tàn phá bởi lối sống đua chen chạy theo hưởng thụ vật chất. Với “Mạ tui”, chúng ta hiểu ra, Fb cũng như “mạng xã hội” và công nghiệp hiện đại không có “lỗi” gì. Vấn đề là con người sử dụng chúng phải có bản lĩnh, có cốt cách văn hóa…

2. Một con người bình thường vẫn chứa đựng một phần lịch sử

Sau khi đọc các hồi ký và tự truyện của Phan Thị Thu Quỳ (“Áo tím đồi sim”), Bảo Cường (“Sau một cuộc đời”), Trương Thị Thu Cúc (“Những người muôn năm cũ”), Song Cầm (“Cánh chim trong bão tố”), tôi đã nêu vấn đề “Tự truyện không chỉ dành cho người nổi tiếng”. Với “Mạ tui” của NVAH, một lần nữa, điều này được khẳng định. Tuy vậy, trong cuộc tọa đàm “Hồi ký - chuyện đời, chuyện người và trào lưu xã hội” do Sống - thương hiệu sách tác giả Việt của Alpha Books tổ chức hồi tháng 6 năm 2018 tại Hà Nội mà sau đó nhiều báo chí đưa tin, xem ra các diễn giả và dư luận chỉ chú ý đến tự truyện của người nổi tiếng, những người làm nghệ thuật trong showbiz... có nhiều độc giả nhưng cũng từng bị chỉ trích về tính chân thật và nhất là các tình tiết xúc phạm đến những người xung quanh. Những điều đó cũng như những cuộc tình “tay ba”, “tay tư” gây scandal là có thật, chủ yếu diễn ra trong giới nghệ sĩ, diễn viên; tự truyện của họ chủ yếu đáp ứng sở thích những kẻ tò mò hậu trường các “ngôi sao”, chứ không hẳn có giá trị về văn chương, càng không nêu được các vấn đề xã hội, lịch sử của đất nước.

Gần đây, chính một số hồi ký, tự truyện của những người chưa nổi tiếng, không thuộc giới “showbiz” lại đạt được những giá trị đó, tiêu biểu như “Lính bay” của Phạm Phú Thái (viết về các chiến sĩ không quân) và “Chuyện lính Tây Nam” của Trung Sĩ… Tôi không có ý so sánh “Mạ tui” với hai tác phẩm vừa dẫn, nhưng có thể gọi đây là “dòng” tự truyện viết từ lớp người “cơ sở”, nền tảng của xã hội (thời M. Gorki thì gọi là “Dưới đáy”) - những trang sách không nhiều “mầu mỡ” như của giới “showbiz”, cũng thiếu tầm “vĩ mô”, nhưng đầy ắp chi tiết chân thật của cuộc sống, của lịch sử.

Người mẹ trong “Mạ tui” là một con người bình thường - rất bình thường, chỉ có “chức vụ” duy nhất là mẹ của chín đứa con, suốt năm tháng chạy chợ “đầu tắt mặt tối, đòn gánh đè vai… bàn tay chai sạn, bàn chân nứt nẻ vì nắng mưa gió chướng”; vậy mà qua cuộc đời bà và những người con - kể cả mấy người “con-dâu-hụt” - cũng đều là người bình thường, chúng ta như được gặp lại, được sống lại những năm tháng đầy biến động của dân tộc. Nói cách khác, những con người bình thường trong “Mạ tui” vẫn chứa đựng một phần lịch sử.

Trong nhiều năm, dân tộc ta liên tục phải trải qua chiến tranh nên nói đến “lịch sử”, hầu như ai cũng nghĩ là phải có cảnh bom rơi đạn nổ, có các sự kiện đấu tranh; trong “Mạ tui” cũng có những điều đó (xin trình bày phần sau), nhưng “lịch sử” còn là việc gìn giữ nguồn cội, truyền thống văn hóa một vùng đất, nền nếp gia phong… Trong cuộc đấu tranh, người mẹ trong “Mạ tui” tưởng như bà ở ngoài dòng chảy lịch sử hào hùng và bi tráng của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ - ngoại trừ một lần vào dịp Tết Mậu Thân 1968, bà phải ôm con đi sơ tán kèm với nắm rơm ủ ấm cho mấy mẹ con. Vậy nên “công lao” lớn nhất của bà trong giai đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc vừa qua là nuôi dưỡng, giáo dục đàn con, xây dựng một gia đình “ngũ đại đồng đường” theo khuôn phép của một “tín đồ Phật giáo thuần thành; từ nhỏ Mạ đã theo bà ngoại đi chùa làng An Hòa tụng kinh niệm Phật…. Đã thọ “thập thiện giới ăn chay một tháng mười ngày…”; nhờ đó, bà đã đưa gia đình vượt qua bao sóng gió, cùng tiến bước với xã hội cho đến ngày hôm nay. Đây là một sự nghiệp không thể xem thường, thậm chí là quan trọng, khi chúng ta nhận ra vấn đề giáo dục trong gia đình ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc xây dựng một xã hội tốt đẹp, khi không ít người “bất ngờ” thấy ra nhiều khía cạnh “tích cực” trong đời sống xã hội ở Lào và Miến Điện - hai nước xem đạo Phật như là “quốc giáo”...

Đọc mấy trang hồi ức của Nguyễn Viết Huy - cháu nội đích tôn của bà - viết ở phần cuối cuốn sách, nhắc lại những bài học về sự tiết kiệm, về sự nhường nhịn mà bà răn dạy con cháu hàng ngày, chúng ta càng thấy giá trị “công lao” của người mẹ bình thường ở làng An Hòa phía Bắc thành Huế vừa ra đi ở tuổi 104… xuân!

3. Chính trị, Tôn giáo, Tình yêu và số phận con người

Tự truyện của NVAH dành khá nhiều trang viết về những cuộc tình dang dở của mình khiến “Mạ tui” thêm sức cuốn hút bạn đọc. Nhà văn Trần Thùy Mai, trong lời “Tựa” có nhận xét: “Thật là “trong cái rủi có cái may”, sự lận đận tình duyên của anh, làm cho mẹ anh âu lo thấp thỏm suốt chục năm trời, nay lại trở thành kho vốn liếng để anh xây dựng nên hàng trăm trang viết hấp dẫn…”.

Điều tôi quan tâm hơn là các chuyện tình trắc trở của anh không phải để “câu khách”, càng không phải kiểu tình yêu chụp giật hay buông thả, chạy theo danh lợi của không ít người trong “giới showbiz” từng bị dư luận chỉ trích; tình yêu ngang trái của NVAH không thiếu vẻ đẹp mà chính tác giả gọi là “Mối tình thơ” và “Chuyện tình xuân”, nhưng rồi bất thành vì sự trớ trêu của số phận. Đó là một cách nói ngắn gọn thôi, còn những chuyện tình tan vỡ của NVAH không chỉ khiến người trong cuộc và bà mẹ già của anh buồn đau mà còn gợi chúng ta nghĩ đến bao điều về thân phận con người trước những đổi thay, về sự ràng buộc tình yêu đôi lứa vì tín ngưỡng tôn giáo… Đã có nhiều tác phẩm viết về sự cô đơn của con người trước những va đập của lịch sử; với các trường hợp của NVAH, chúng ta xót xa vì cảm thấy các “guồng máy” hầu như không chút bận tâm trước sự tổn thương, đổ vỡ của mỗi số phận; và trong hoàn cảnh đó, con người tỏ ra thật là yếu ớt. Các học trò yêu đã trách thầy Kế yếu đuối và chính tác giả cũng tự nhận mình không đủ mạnh mẽ để vượt qua trở lực. Nhưng có ai đó đã nói rằng vẻ đẹp thường yếu ớt (như một bông hoa hồng, một tiếng đàn thánh thót trong đêm…) rất dễ bị “tổn thương”; mà con người là một vẻ đẹp - tác phẩm kỳ diệu của tạo hóa - con người đang sống như trong mơ với mối tình đẹp, càng dễ bị xiêu đổ. Giá như mọi người hiểu điều đó và biết quan tâm, biết gượng nhẹ khi buộc phải đụng chạm đến mỗi số phận con người!

Trên thế gian, không ít người chỉ một lần thất tình đã tìm đến cái chết, NVAH thì “quá tam ba bận” phải “giương cờ trắng” trong cuộc tìm con dâu cho mẹ. Lần đầu, với một nữ sinh Đồng Khánh, vào lúc “giao thời” của lịch sử Việt Nam: Năm 1974, chàng vay tiền mẹ nàng để tổ chức Đêm Sư phạm hàng năm vào dịp Tết, dự tính khi nhận học bổng sinh viên sẽ trả. Nhưng ai ngờ, sau 26/3/1975, “Huế giải phóng và… học bổng sinh viên cũng...” mất luôn. Ban Đại diện thì chỉ mình chàng ở lại Huế “chịu trận”. Thế là Mạ phải “bán gần hết tra lúa được chừng gần một cây vàng” cho con trả nợ. “Làm cái Ban đại diện chi cho khổ cả nhà rứa con ơi!... Trời ơi là trời, trời không có mắt!”

Quả là chỉ có kêu… trời, chứ biết hỏi ai? Biết trách ai bây chừ!

Lần thứ hai, với người đẹp làng Ngọc Anh (Phú Vang) mặc cho chàng “xách ba lô cơm đùm gạo bới… đi nhận nhiệm sở ở vùng đất bazan có cúc quỳ vàng”. Mối tình nồng thắm bất chấp khoảng cách không gian và không “môn đăng hộ đối” - nàng là Tôn Nữ (dòng dõi Tôn Thất), đặc biệt hơn nữa là thân phụ nàng đang phải “cải tạo” ở Bình Điền! Vậy mà đôi bên đã vượt qua bao nghi ngại, cho làm lễ ăn hỏi, nhưng sự đời, ai học hết chữ “ngờ”! Đúng lúc chàng và nàng tính ngày làm lễ cưới thì tin như “sét đánh ngang tai”: Chính quyền “quyết định trưng thu ngôi nhà, vườn tược... để lại căn bếp và 100 mét vuông cho gia đình, mẹ em đã ngất xỉu…”. Thế là tan nát một mối tình đẹp vì “với ba em, tui là “cán bộ Đoàn, người của cách mạng”... Ta đành phụ nhau em ơi!...”

Cũng chỉ có kêu… trời, chứ biết hỏi ai để phân giải được sự đúng - sai? Biết trách ai đã làm cho đôi trẻ khóc hết nước mắt vì biệt ly bây chừ!

NVAH thì hiểu nghĩa vụ người con trai độc nhất của mẹ, thấy mình có lỗi để mẹ già mãi mong chờ cô dâu hiền, nên dù đang đau đớn vì chia tay nàng Tôn Nữ làng Ngọc Anh đến mức mang bệnh dạ dày, chàng lại “dấn thân” vào cuộc tình lần thứ ba với cô y tá chăm sóc chàng tại bệnh viện. Cũng nhờ đám học trò xứ sở hoa quỳ vàng vun vô và nàng lại là người Huế lên xây dựng Tây Nguyên như chàng. Lo cho con đau ốm và chắc cũng nóng lòng muốn biết mặt con dâu tương lai, người mẹ già cùng bà chị NVAH, không quản đường xa còn đầy trắc trở hồi đó, bới đùm quà bánh lên Gia Lai. Bà chưa kịp mừng thấy cô y tá đẹp người tốt nết thì đã hoảng hồn khi biết cô theo đạo Thiên Chúa và đã ăn “bánh Thánh”. “Trong suy nghĩ rất đơn giản mà nghiệt ngã của Mạ tui, không thể có chuyện kết hôn với người ngoại đạo. Bởi vì Mạ sợ lấy vợ, lấy chồng như thế là bỏ đạo luôn”. Thế là chuyện tình đẹp với Thánh nữ miền cao nguyên tan vỡ ngay sau “Đêm Thánh vô cùng” mùa Giáng sinh năm đó!...

Lại chỉ còn biết kêu… trời, chứ biết hỏi ai, rằng Đạo nào cũng dạy con người điều thiện mà sao nỡ chia lìa đôi lứa đang yêu? Và biết trách ai bây chừ!

NVAH còn “trắng tay” trong cuộc tình lần thứ 4 với nàng “Radio” xinh đẹp, ngâm thơ hay trên Đài Phát thanh Gia Lai. Mà đâu chỉ NVAH, trong “Mạ tui” còn có một số nhân vật chịu đựng mất mát, bất hạnh vì thời cuộc đảo lộn khiến người đọc không khỏi xót xa. Như người chị của tác giả, “mồng 4 Tết Mậu Thân 1968, chồng chị là lính “Xây dựng nông thôn” chế độ miền Nam về nghỉ Tết, sau đó thì đi tải thương cho bộ đội…” rồi mất tích; chị mòn mỏi chờ đợi suốt gần 50 năm, ở vậy nuôi hai cháu khôn lớn và chăm sóc mẹ già… Cặp đôi “thầy trò lớp Toán” cũng có cuộc tình thật đẹp trên đất cao nguyên, nhưng rồi thầy theo gia đình vượt biên, trò mỏi mắt chờ đợi mãi, rồi cũng phải “chọn lấy một trong những người đàn ông theo mình bấy lâu làm chồng dù nàng không yêu. Trái tim nàng rớm máu…”. Gần 40 năm sau, họ tình cờ “gặp lại nhau trong một quán cà phê nổi tiếng giữa phố núi mù sương… trong tiếng hát của ca sĩ Thái Thanh “Còn chút gì để nhớ, để quên”…”.

Nhưng thôi, chỉ 3 cuộc NVAH “lỡ đò” cũng đủ để chúng ta phải suy ngẫm về những bất trắc và sự “vô thường” trên đường đời không phải lúc nào cũng êm đẹp. Một tác phẩm đầu tay, đặt được vấn đề như “Mạ tui” khiến người đọc phải 3 lần “chỉ còn biết kêu… Trời”, là một thành công không nhỏ của NVAH.

*

Còn có thể nêu ra một số điều đáng chú ý trong “Mạ tui”, như cách sử dụng tiếng địa phương khá “đậm đặc”, nhưng không làm độc giả khó hiểu mà lại tạo được “không khí” Huế rõ nét; về kết cấu truyện, Trần Thùy Mai khen tác giả “sáng tạo khi thỉnh thoảng lại cắt lớp thời gian, kéo người đọc về thời hiện tại”, nhưng thực ra, đây là thủ pháp nhiều cây bút đã thực hiện rất giỏi; còn cách “xen kẽ” chuyện “xưa - nay” của NVAH có chỗ chưa… khéo, hơi “xôi - đỗ”, mặc dù trong các “lát cắt” đan xen có những “màn” thú vị như cuộc gặp thầy trò “Có thể nào quên” tại Pleiku sau gần 30 năm xa cách, với chuyến bay trở lại Huế có thể là “độc nhất vô nhị” bằng chuyên cơ H.344 của người học sinh cũ đã thành nhân vật nổi tiếng Bầu Đức (“sếp” Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai) do anh hùng không quân Nguyễn Thành Trung cầm lái!…

Cuộc đời vốn bất toàn, sao có thể đòi hỏi sự toàn bích của một tác phẩm đầu tay, lại sinh thành từ những trang Fb, nhất là khi tác giả phải chạy đua với thời gian để có sách kịp ra vào ngày giỗ đầu của mẹ - mùa Vu Lan báo hiếu. Được biết thành công của NVAH đã đưa “Mạ tui” vượt không - thời gian, đến với nhiều độc giả ở xa Huế và tác giả đã phải “nối bản”. Thật vui khi sách ra mùa Vu Lan được đọc cả… bốn mùa!

Hy vọng sau thành công này, NVAH với sự từng trải trên đường đời sẽ tiếp tục đi xa trên đường văn.

N.K.P
(TCSH356/10-2018)

...............................
Tự truyện Mạ tui của Nguyễn Viết An Hòa, Nxb. Thuận Hóa, 2018.  






 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.

  • NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?

  • KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.

  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)

  • LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.

  • FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.