Ngày thứ sáu

10:05 13/05/2015

THÁI NGỌC SAN

Hình ảnh của Hảo trên sân ga làm cho tôi đau đớn. Nàng giống như một nữ tu kín trong ngày ép xác, cả người trùm kín trong chiếc áo khoác và tấm khăn choàng nỉ đen, hơi sương giá tháng ba như những mũi kim găm vào da thịt làm mặt nàng tím ngắt.

Minh họa: Đinh Cường

Tôi rùng mình nhớ đến ngày thứ sáu hôm trước và hối hận tại sao lại để nàng đến đây. Hồi còi tàu lần thứ ba rúc lên như tiếng kêu tắc nghẹn đau xé. "Hãy tha tội cho anh", tôi nói vội vàng và bỗng thấy câu nói thật là thừa thãi, vô nghĩa. Nàng không nói gì. "Cho em gởi lời thăm chị ấy", cuối cùng nàng nói. "Không có gì, anh đi đi, không có gì hết", nàng nói thêm, không biết để trấn an tôi hay để tự trấn an nàng, tiếng nói khô khốc, lạnh buốt. Con tàu rùng rùng chuyển bánh và tôi thấy Hảo vẫn đứng yên như bức tượng bên trụ điện, không ngước mắt nhìn theo. Nhưng tôi biết nàng sẽ còn đứng đấy cho đến khi con tàu xa khuất và nàng có thể đứng đấy hàng thế kỷ...

"Em không hiểu vì sao em yêu anh, một lần Hảo nói với tôi, em không hiểu. Nhưng nếu hiểu ra chắc em chết mất - nàng nói tiếp - nhưng còn anh?" - "Anh cũng không hiểu"- tôi nói. "Anh nói dối. Anh hiểu, anh hiểu vì mọi thứ đối với anh thì dễ hiểu hơn". Tính cách nàng là vậy, tôi không cãi, nhưng nghiệm ra thì chắc nàng có lý. Đúng là tôi hiểu vì sao tôi yêu nàng. Người con gái nầy đã đến với tôi như một cơn lốc cuồng nhiệt, một khát vọng không cùng, tôi bị nàng cuốn vào không dứt ra được; ở nàng tôi tìm thấy sự say mê, niềm hoan lạc, những cơn bùng cháy của núi lửa và cả những sự im lặng của hố thẳm. Lần đầu tiên gặp nàng tôi thảng thốt biết rằng trái tim tôi đã bị đóng một cái đinh găm. Hôm ấy, đến cả mười năm rồi, nàng hiện ra như trong truyện cổ tích, trước phòng vẽ của tôi, với chiếc áo cánh màu xanh da trời, dải nơ trắng trên bím tóc, cái bím tóc lúc lắc, và chiếc răng khểnh. Bao giờ nghĩ đến nàng tôi cũng thấy hiện ra cái hình ảnh ấy, những màu sắc ấy, nó cứ tràn ngập nhảy múa khắp các bức tranh, khắp các xó xỉnh tâm hồn tôi. Trông nàng tôi bỗng nhớ đến con chim chìa vôi trên những thửa đất cày bủng nước, những con chim mỗi năm chỉ xuất hiện một lần khi mùa mưa bão tới. Tôi nói nhưng nàng không hiểu - nàng chưa hề biết một loài chim như thế. "Nó từa tựa chim chích chòe", tôi giải thích. "Chim chích chòe thì em biết. Nhưng em không phải là chim chích đâu, em là con quạ khoang đội lốt, con quạ khoang thích những tĩnh vật". Nói xong nàng đến đứng ngắm nghía những trái măng cụt, những bông hoa hải đường trên một bức tranh cũ của tôi. "Em không thích màu đỏ gụ của giàn thờ, bao giờ nó cũng gợi cho em những xác hoa rụng trên vỉa hè, những nhà tu kín..." Bức tranh ấy nay đã được tôi xếp vào trong một xó góc của quá khứ. Và một thế giới mới bắt đầu được mở ra bất ngờ, và đơn giản như tình yêu của nàng. Nàng đến bất ngờ, đơn giản nhưng đầy bí ẩn như màu sắc hiện ra trên khung vải, tôi tưởng như đã bắt được nàng trong tầm tay, thế nhưng, chúng giống như những bức tranh đã được lồng trong khung kính, tôi biết, suốt đời tôi còn phải tìm kiếm một gam màu khác nữa vẫn còn chìm ẩn đâu đó. Trên căn gác nhỏ ấy, nơi mỗi năm tôi về một lần, bao giờ trở lại tôi cũng tưởng như đã có nàng ở đấy, như những tuýp màu, những khung vải. Cũng thật lạ lùng, như tự thân nàng có một sức dẫn nào đó vô hình làm xóa nhòa đi mọi ranh giới, mọi trói buộc, trong suốt mười năm nàng đến đây, mọi người trong cái thế giới cỏn con này tự nhiên xem nàng như một thành viên của gia đình. Nàng đến sắp xếp, bày biện rồi đi, cả khi không có tôi. Còn tôi, tôi giống như đứa trẻ, mỗi khi trở lại, tôi xục xạo các gam màu và chìm ngập trong thân thể nàng. Nhưng mỗi khi vừa bước ra khỏi, tôi lại thấy hụt hẫng, lại thấy khát khao, lại quay quắt muốn bắt đầu lại từ đầu. Đột nhiên, một lần nàng nói: "Tại sao anh phải đóng khung các bức tranh?". Tôi giật mình, tưởng nàng muốn ám chỉ đến mối quan hệ giữa tôi với nàng. Nhưng không, mặt nàng lạnh tanh như mỗi lần đề cập tới những vấn đề nàng quan tâm. "Dù sao các tấm vải cũng như thế giới đều nằm trong những kích thước có sẵn", tôi nói. "Không, thế giới không nằm trong những ô vuông, hoặc hình chữ nhật - thế giới không giới hạn, nàng nói. Cũng bởi vậy em thích biển mặc dù em chưa bao giờ đến với nó, bao giờ biển cũng tạo cho em ấn tượng không bờ bến". "Biển vẫn có bờ...", tôi nói và bỗng thấy mình hớ hênh. Nhưng dường như nàng chẳng để ý gì đến lời tôi, hoặc là nàng cố tình như vậy, nét mặt nàng trở lại bình thản, xa xăm. Nàng cất tiếng hát một bài hát nàng thích: "Chiều chưa đi màn đêm rơi xuống. Đâu đây buông lững lơ tiếng chuông. Đàn chim én bâng khuâng rã rời và mây xám về ngang lửng trời...". Ngay cả tiếng hát tôi đã nghe đi nghe lại bao nhiêu lần, nhưng mỗi lần nàng cất lên, tôi vẫn nghe âm vang như tiếng thì thầm của một thế giới nào đó xa xôi vẳng lại.

Hảo đánh cho tôi một bức điện khó hiểu: Em đợi anh. Tôi lạ lùng, lo lắng. Trong suốt mười năm nay, thời gian xa nhau, chưa bao giờ nàng viết cho tôi một chữ. "Chữ nghĩa không là gì hết, nàng nói, nó nghèo nàn không chịu nổi". Còn tôi, mỗi khi xa nàng, nghĩ đến nàng, tôi quay quắt đến dại khờ. Có lần tôi hỏi nàng có đọc những lá thư tôi không, nàng nói chẳng những thế mà còn có thể thuộc lòng. Đoạn, giống như người mẹ trấn an con cái, nàng nhắc cho tôi chi tiết trong một bức thư, cả ngày tháng gửi, trong số hàng trăm bức thư tôi gởi cho nàng được nàng sắp đầy một hộc tủ. Nàng có một trí nhớ thật đáng sợ, như thể đã được kết tinh từ những năm tháng cô độc, đau thương trong căn phòng lạnh ngắt, với bà cô già mù lòa và với mối ám ảnh khủng khiếp. Nàng sống ở đấy kể từ năm lên mười, sau cái đêm bom kinh hoàng đã vùi chôn cả cha mẹ nàng trong đống gạch vỡ. Căn phòng này mỗi khi đến tôi đều có cảm giác gai lạnh như đang ở trong một cỗ áo quan: Cái giường, cái tủ, cái kệ sách, chiếc ghế dựa bên thềm cửa của bà cô mù lòa..., tất cả đều được sắp xếp một cách ngăn nắp, ngăn nắp đến lạnh lẽo. Và tôi hiểu, tôi hiểu một cách đau đớn rằng vì sao nàng không muốn tôi đến đây. "Nơi đây là thế giới của riêng em, khi không có anh, là...", nàng muốn nói thêm một điều gì nữa nhưng bỗng nhiên im bặt. Tôi bắt chợt một tia sáng long lanh trong mắt nàng, nó tỏa ra rồi tắt ngấm rất nhanh, tựa như một đốm sao băng. Có một lần, tôi nhớ, đang đi trên đường, đột nhiên nàng thét lên như bất tỉnh trong tay tôi. Đến khi hiểu ra tôi vội dìu nàng qua bên kia đường: Trên vỉa hè kia, một đám trẻ đang đùa dẫm trên những xác hoa gạo, những xác hoa đỏ bầm bắn tung tóe như những vạt máu. Đêm ấy nàng nằm sốt li bì run rẩy trong tay tôi. Nhìn nàng nước mắt tôi tự nhiên ứa ra, tôi chạnh nhớ đến thuở nhỏ xa xưa một lần tôi đã khóc một con chim nhỏ bị thương co quắp trong tay mình.

Lần này Hảo không đón tôi ở sân ga. Tôi hốt hoảng nhưng khi về đến phòng vẽ đã thấy nàng ở đó. Nàng ngồi bên khung cửa sổ, quay lưng lại phía tôi, lặng yên như đã hóa thành tĩnh vật trong một bức tranh. Khung cửa sổ mở rộng, chỉ khác lệ thường, không có những cánh hoa bướm đủ màu sắc lung linh, bay lượn. Nàng rất thích những cánh hoa ấy và khung cửa sổ của căn gác nầy, nơi nàng thường đứng hàng giờ nhìn bầu trời ngổn ngang những mái phố cổ, những con đường nhỏ kẻ ô khuất dưới những hàng cây. Những đêm mùa đông nàng vẫn để rộng cánh cửa đứng lạnh cóng trong hơi sương buốt giá. "Đây là thế giới của Chagall, nàng nói, anh nhìn xem, bên mái nhà kia trên cái cây bàng trụi lá ấy, chàng nghệ sĩ đang ngồi kéo bản xô-nát của Shubert!" Chàng nghệ sĩ thì tôi không thấy, nhưng tiếng nhạc réo rắt thì tôi nghe vẳng lên từ đâu đó, bảng lảng trong sương khuya. Một lần khác, nàng nói: "Em tin một ngày kia chúng ta sẽ bay lên, bay lên giữa bầu trời này và rắc hoa lên những mái phố cổ..."

Không bao giờ tôi có thể quên được khuôn mặt của Hảo hôm ấy. Khi tôi bước tới đứng trước mặt nàng, tôi bỗng khựng lại, toàn thân gai lạnh như đối diện với một bức tường giá băng. Nàng ngồi yên như thể đã ngồi yên như thế hàng trăm năm rồi, đôi mắt thâm quầng che phủ một màng mây đục, những đường gân xanh nổi lên chằng chịt trên làn da tái. Thốt nhiên tôi rùng mình tưởng như thấy căn nhà sắp sụp xuống vực thẳm tai biến. Nàng nói, không nhìn tôi, tiếng nói không âm sắc như được cất lên từ một nhà mồ lạnh lẽo, nàng báo cho tôi biết cái tin quan trọng ấy cùng với quyết định của nàng. Tôi như sụp xuống dưới chân nàng khi nghe nàng nói xong: Tôi kêu gọi, tôi van xin, tôi thề thốt, rằng nàng không được làm như vậy, rằng tôi sẵn sàng từ bỏ tất cả, sẵn sàng trả giá cả cuộc đời tôi để bảo vệ nàng... Tôi nói như mê sảng nhưng nàng vẫn lạnh lùng như tảng băng. Cuối cùng, nàng nói: "Em đã quyết định rồi, không phải vì anh mà là vì em. Anh đã nói đúng: Thế giới, cuộc đời không thể vượt ra ngoài những kích thước có sẵn. Em đã bất lực, chịu thua. Bây giờ em mới biết vì sao em không tới biển - Em sợ…"

Hôm ấy đúng vào ngày thứ sáu, theo Thánh kinh là ngày ngài Giêsu của người Thiên chúa giáo chịu đóng đinh trên cây thập giá. Khi Hảo bước từng bước nặng nề qua cánh cổng sắt căn nhà quét vôi trắng toát sực mùi ê te ấy, tôi tưởng như thấy nàng đang bước đi trên con đường khổ nạn với cây thập giá trên vai, cây thập giá không hình hài nhưng chắc nặng gấp ngàn lần hơn cây thập giá hai mươi thế kỷ trước; tôi thảng thốt nghĩ đến những cái đinh nhọn sẽ đóng vào thân thể nàng, cái lưỡi lê sẽ xuyên thủng trái tim nàng... Một phút giây qua đi lúc bấy giờ tôi tưởng dài bằng cả thế kỷ. Chúa ơi! Tôi kêu thét lên cùng với tiếng kêu đau xé vẳng lên từ trong khung cửa căn phòng đóng kín kia. Cùng lúc, tôi tưởng như có tiếng sấm giật từ trên không trung, tiếng sấm hai mươi thế kỷ trước xé rách hai bức màn nhà thờ, và mặt đất dưới chân tôi nứt toác, rồi một cơn bão lốc từ đâu ào ào xô tới cuốn bay các cánh cửa, các mái nhà, cây cối, cuốn tôi bay lên, bay lên...

Khi bước vào căn phòng Hảo nằm, tôi tưởng như đang đứng trong một căn nhà mồ. Nàng nằm đấy, thân thể trùm kín trên chiếc băng ca, khuôn mặt bạc thếch trắng dã, tưởng như già đi trăm tuổi, hai con mắt mờ đục mở tròn nhìn lên cái trần nhà trắng toát. Tôi quỵ xuống bên gối nàng, ủ hai bàn tay lạnh giá mềm nhũn như tảng bông vào mặt mình và ước gì có một phép mầu nào đó cho tôi được truyền cả hơi ấm, cả máu huyết tôi cho nàng. Nàng nói thều thào: "Mọi sự đã xong, anh về đi, bây giờ anh chẳng có thể giúp gì được em đâu..."

Tôi biết tiếng nói ấy sẽ như lời phán truyền còn đuổi theo tôi suốt đời, như những mũi kim đâm vào trái tim rỉ máu.

11.1988
T.N.S
(SH35/01&02-89)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI BÁ TÂN

    1.
    Biết tôi viết văn, một anh bạn hiện là kỹ sư lâm nghiệp ở lâm trường S.V miền Tây Nghệ An, có gửi cho tôi một bức thư. Trong thư anh kể chuyện con voi kéo gỗ duy nhất của lâm trường, để như anh nói, tôi dựa vào đó viết một truyện ngắn mà theo anh (nguyên văn) "có thể thu hút được sự chú ý của người đọc".

  • NGUYÊN QUÂN

    Hắn rướn người về phía trước, hai bàn tay tướp máu, mò mẫm bóc từng lớp bóng tối trước mặt, hai đầu gối rách nát nhích dần trên nền đất đá lởm chởm tối đen. Ánh sáng còn ở đâu rất xa…

  • TRẦN ĐỨC TĨNH

    Có người đã từng chửi tôi là đồ chó, chẳng biết tại sao mà họ lại chửi tôi thậm tệ thế?

  • TRẦN DUY PHIÊN

    1.
    Trần Việt Chiến là con ngựa chiến. Ai cũng thừa nhận như thế, kể cả những người không ưa anh.

  • LÊ THỊ MÂY

    Anh đợi một cô bé từ bên kia lề phố bước sang, lên tiếng hỏi:
    - Này cháu, cho chú hỏi, đây là phường Năm phải không?

  • LÊ MINH PHONG

    “...Người là thánh nhân
    Người đã sống trong chúng con
    hôm nay và ngày sau

  • HOA HẠ

    Chiều vội vàng kéo tấm lưới mỏng như voan màu đỏ tía choàng xuống vùng phá Tam Giang, gió mơn man thổi nhẹ mang theo mùi chua nồng của đất, mùi ẩm mốc bốc ra từ chòi ông Bảy, mùi món cá bống kho riềng thơm phức đặc trưng rất riêng của cô Hồng ở chòi cạnh bên, mùi nước lá thơm mà dì Tư chiều nào cũng phải có để tắm cho đứa cháu đích tôn mới sinh…

  • NGUYỄN ĐẶNG MỪNG 

    Tôi làm vợ anh tròn ba mươi năm. Nhiều đêm chiêm bao thấy hắn, thấy lại vũng Cọp Rằn, tôi ú ớ kêu rên, tỉnh ra nằm khóc ấm ức.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG

    Cuộc sống quả thực đầy bất ngờ đến mức không thể tưởng tượng nổi. Cách đây mười năm, anh có một cái tên. Một ngày sau đó, anh mang một cái tên khác cho đến bây giờ: Ma-Niu-La.

  • PHÙNG TẤN ĐÔNG

    Đời là thế. Hơi đâu mà phải hoa chân múa tay thanh minh trước bàn dân thiên hạ điều này điều nọ không mấy hay ho về mình.

  • PHẠM THỊ HƯƠNG

    Ngay sau khi ông khỏe lại, việc đầu tiên ông muốn làm là từ mặt vợ chồng tôi. Mẹ chồng tôi là một người đàn bà cam chịu. Bà không ra phản đối cũng chẳng ra đồng tình. Bà lặng lẽ ngồi mép ghế, cúi đầu như người biết lỗi.

  • NGUYỄN VĂN

    - "Hãy dẹp cái lối tự ái thỏn mỏn ấy đi"- Tôi tự dằn lòng mình bằng một câu như thế, trước khi đạp xe đi đến nhà hắn. Phải mất cả đêm thức trắng tôi mới có được cái quyết tâm như thế. Thực ra, cũng chẳng còn cách nào khác.

  • NGUYỄN KIÊN

    Tôi có anh bạn tên là Trứ, có phòng riêng ở một khu tập thể. Chúng tôi thân nhau từ hồi còn học phổ thông. Sau nhiều năm lang bạt mỗi đứa một phương, nay gặp lại, tình bạn giữa chúng tôi có phần còn thắm thiết hơn xưa.

  • LÊ MINH PHONG 

    Trong chợ, những người ăn xin vẫn lết đi theo cách thức riêng biệt của họ. Thỉnh thoảng lại có những đồng tiền lẻ rơi xuống trên những vũng nước đen sì và những người ăn xin lại tranh nhau nhặt chúng rồi xỉ vả nhau cũng bằng thứ ngôn từ riêng biệt của họ. Không biết không gian này có phải là trong ảnh hay không.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG  

    Nó đến vào buổi chiều, cuối mùa hè, khi tôi chơi thả diều trên cánh đồng gần sông với Hà và mấy đứa bạn. Tôi và Hà cùng mười tuổi, sắp vào lớp năm. Nó đến bất thần. Ngang thắt lưng.

  • NGÔ DIỆU HẰNG 

    Ngày ngày nhìn qua cửa sổ, thấy bạn bè tung tăng đến trường, những tà áo trắng bay thướt tha trên đôi bánh xe đạp xinh xinh tôi lại ngồi co rúm mình vào góc phòng.

  • NHỤY NGUYÊN

    Cô hướng dẫn viên trẻ, giọng mềm và nhẹ, cho hay động Thiên Đường được phát hiện nhờ một người dân tộc. Từ thời điểm động được đưa vào khai thác, những hang động khác giảm hẳn lượng du khách. Người ta chỉ muốn đến thiên đường. 

  • ĐÔNG HÀ

    Dịu nói nàng sẽ đi.
    Tôi ậm ừ qua chuyện. Tôi nhủ Dịu rời nơi này cả chục bận, lần này thứ bao nhiêu, tôi không buồn đếm, nhưng biết chắc nàng chưa đủ can đảm bước đi, dẫu chỉ là bước thứ nhất. Chặp đâm ra chỉ biết ậm ừ.

  • THÁI NGỌC SAN

    Người đàn ông ôm cái cặp da to tướng bước nhanh vào phòng khách vận nhà ga. Cái cặp to gần bằng nửa người ông ta so với chiều cao. Thế nhưng mọi động tác của ông đều nhanh nhẹn, linh hoạt đến láu lỉnh. Có lẽ đó là đặc tính bẩm sinh của những người lùn.

  • VŨ MẠNH LẬP

    Cây ngô cao vồng lên giữa bãi, lạ lắm.
    Già A-nông thầm đặt cho nó cái tên: cây ngô chướng.