KỶ NIỆM 35 HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM (1957-1992) - 60 NĂM PHONG TRÀO THƠ MỚI (1932-1992)
Một số nhà thơ trong phong trào Thơ Mới 1932, Từ trái sang phải:
Hàng đầu : Nguyễn Xuân Sanh, Anh Thơ, Huy Cận, Tế Hanh. Hàng thứ 2 : Hoài Chân, Xuân Tâm Hàng thứ 3 : Nguyễn Xuân Huy, Mộng Huyền, Vũ Đình Liên - (Nguyễn Khắc Thùy - nhạc sĩ) Hàng sau cùng : Phan Khắc Khoan - (Hà Minh Đức - nhà LLPB) |
LTS: Thơ của tác giả tự chọn kèm theo lời giải đáp câu hỏi: "Làm thế nào để có thơ hay". 131 nhà thơ hội viên Hội nhà văn Việt Nam, 131 lời tác giả, 131 bài thơ. Chắc hẳn những người làm sách cũng như bạn đọc yêu thơ, sành thơ trong cả nước không coi tập sách này là đủ đầy, là khuôn mẫu, càng không thể coi là tinh hoa hoặc những gì tương tự. Song điều này thì chắc hẳn : ngọn sóng tao đàn trào dâng, những dòng tâm huyết tuôn chảy, trăm trái tim Người Thơ, trăm nhịp đập: cuồng nhiệt, thâm trầm, chói chang, lặng lẽ, u tịch, chân chỉ, ảo huyền...
Nhóm Khuê Văn đã làm một việc không chỉ ý nghĩa mà còn đầy trách nhiệm, nếu không muốn nói là khai thông: rút chốt cánh cửa thơ, sau khi gióng lên hồi trống lễ. Và thế là... xin mời quý bạn!(*).
VĂN CAO
Đó là hỏi đến bí mật của sáng tạo... Trong tất cả những phát ngôn về mỹ học trước đây, có thể rút ra những câu giải đáp... Đây là sự tiếp nối, tiếp nối những cái hay thời trước, nói cách khác là mô phỏng - mô phỏng đi tới chỗ nhập thần đến không còn biết là của ai. Aragon có khi dùng hẳn câu thơ của người khác như Éluard nhưng đều có ghi chú. Sự mô phỏng này là sự biến đổi trong cái không biến đổi như ở cấu trúc luận - variation des invariations. Mỗi dân tộc đều có truyền thống cơ sở của cái bất biến ấy là sự tiếp nối các nhà thơ lớn lớp trước.
ANH CHI
Tôi cho rằng câu hỏi đó không đặt ra để thu lại câu trả lời rành rẽ. Nhà thơ nào trả lời trọn vẹn được ? Đó là sự dằn vặt. Còn dằn vặt bởi nó, còn có thể làm được thơ hay.
KHƯƠNG HỮU DỤNG
Tôi tâm đắc câu thơ của người xưa "Ngâm thành ngũ cá tự, Dụng phá nhất sinh tâm", nghĩa là làm nên câu thơ năm chữ nát cả tấm lòng một đời...
TRINH ĐƯỜNG
Chim không thể tung cánh trong lồng cho dù là lồng son. Phải có lòng yêu tha thiết con người và chống lại mọi cái gì ràng buộc nó. Thơ có thơ người, thơ thần. Làm thơ là lên đồng. Thơ hay chỉ có lúc xuất thần. Thơ là Đạo. Có khổ công tu luyện, có quên mình mới đắc Đạo.
QUANG HUY
Hầu như câu thơ hay là câu thơ không giảng được (xin lỗi các nhà giáo và các nhà phê bình). Nó chỉ có thể cảm nhận được từ trong tiềm thức. Và cứ thế ngân lên, rung động không cưỡng nổi trong trái tim người đọc. Tất cả sự cầu kỳ rắc rối, cố gắng đổi mới về ngôn từ và nhịp điệu đều là vô ích.
TỐ HỮU
... Khi tôi hỏi về sứ mệnh nhà thơ, Guillen đáp "Làm thơ hay, đừng làm thơ dở". Khi có người hỏi Bác "Làm thế nào để có văn nghệ cho hay", Bác bảo "Phải làm cho hay". Nghĩ cho cùng thì cả hai câu trả lời đều chí lý.
"Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài", không ai thiên tài mà nhẫn tâm. Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du đều có cái tâm lớn. Tâm là nhân, nhân ái, chống lại cái ác. Sự nghiệp Lỗ Tấn tập trung phản kháng trò người ăn thịt người. Con thú ăn thịt người hiện nay vẫn còn và chưa biết bao giờ mới hết. Số phận con người còn nhiều nỗi, nhiều cảnh ngộ đáng thương đáng quý. Điều đáng sợ là con người không biết thương con người...
TRẦN ĐĂNG KHOA
Giản dị, xúc động và ám ảnh. Phải có cùng một lúc cả ba yếu tố ấy thì mới có thơ hay. Nhưng đó là một điều khó và vì thế, nó vẫn còn là một bí mật.
LÊ THỊ KIM
Thơ hay là thơ khi đọc xong người ta cảm thấy sung sướng dù có là những dòng buồn. Người ta không thể chấp nhận một nghệ thuật, cho dù tinh luyện mà thiếu một cõi lòng, bởi thơ là tiếng nói của trái tim.
NGÔ MINH
... Thơ là tâm cảm, tâm tình thật của nhà thơ mong được giải bày, chia sẻ với đời.... Trên con đường vô định của thi ca, lòng say mê và bản lĩnh sống của nhà thơ là hành trang không thể thiếu để cho anh ta có thể gặt hái một điều gì đó.
NGUYỄN THỊ HỒNG NGÁT
... Làm thơ đối với tôi như một sự giải thoát, như một cứu cánh không thể nào thiếu được trong đời sống tinh thần và tình cảm của tôi.
HOÀNG TRUNG THÔNG
Tôi đọc thơ có đến hơn nghìn bài
Có những bài thơ tôi hiểu
Có những bài thơ tôi chẳng hiểu gì
Dù chỉ nói những lời giản dị
Mà vẫn phải nghĩ suy
Ôi! Đọc một bài thơ còn khó hiểu
Như phải khám phá ra điều kỳ diệu
Huống chi đọc cả một tâm hồn của một con người.
ĐÔNG TRÌNH
... Đây là câu hỏi của mọi câu hỏi. Và tôi mong tôi tin câu trả lời sẽ chẳng bao giờ tìm ra... Để cho cuộc đời một nửa địa ngục và một nửa thiên đường, một nửa xấu và tốt, một nửa đúng và sai, một nửa hay và dở. Để cho con người vẫn là một nửa ma quỷ và thần thánh. Để cho thơ ca còn là đền thờ, còn là một thế giới bí ẩn và huyền nhiệm... Để cho còn có tài năng bất tài, còn có bẩm sinh và phủ nhận bẩm sinh... Bất hạnh và nguy tai cho cuộc sống biết nhường nào nếu mọi người làm thơ đều làm ra đồng loạt những bài thơ hay. Tôi cảm ơn những cô gái xấu, vì chính từ họ mà ý niệm về cái đẹp hình thành...
-------------
(*) Sông Hương trân trọng trích giới thiệu 12 tác phẩm và 12 lời Nhà thơ trong Ngày Hội Thơ (NXB Văn Học - 1991)
THÚY BẮC
Vô đề
Nhiều năm em đợi anh
Gió đêm về hoang dại
Biệt tin người trở lại
Ngày em đi lấy chồng
Mây buông dải tang thầm
Tiễn một đời con gái
YẾN LAN
Đọc Nam Hoa Kinh
Sáng đọc Nam Hoa kinh
Tối nằm không hóa bướm
Mừng mình chủ được mình
Dậy thổi nồi khoai sớm
1989
TRẦN NHUẬN MINH
Chiều Yên Tử
Kinh không có chữ ấy là chân kinh
NGUYỄN DU
Nghe tiếng chuông chùa Yên
Sắc cỏ bỗng hoe vàng
Như có ai lững thững
Trong bóng chiều lang thang
Tiếng chuông như hồn người
Tìm nhau trong tĩnh lặng
Đường rừng hun hút trắng
Cây rừng biêng biếc xanh
Tôi nằm trên vệ cỏ
Đối mặt với trời cao
Một nỗi niềm trinh bạch
Giữa bốn bề gian lao
Tiếng chuông đến tìm tôi
Tỏa từng vòng tím tái
Bông lau như mất hồn
Trắng mờ chiều hoang dại
Cuộc đời đến đâu ư?
Con người là gì vậy?
Họa, phúc - có hay không?
Kiếp sau, ai đã thấy?
Mỗi người một câu hỏi
Đi mênh mang trong đời
Nổi chìm bao ghềnh thác
Tôi chưa tìm thấy tôi...
Tiếng chuông lừng lững tắt
Rừng già chìm âm u...
VŨ QUẦN PHƯƠNG
Không đề
Anh còn gì cho em
Những tháng ngày gãy nát
Tuổi thanh xuân qua rồi
Dăm câu thơ nhòa nhạt
Lá trong chiều thu rơi
Anh còn gì cho em
Cánh đồng sau vụ gặt
Phiên chợ khi vãn người
Ngọn đèn vừa cạn bấc
Bãi biển kỳ nước lui
Anh còn gì cho em
Lỡ rồi không dám đợi
Buồn rồi không dám vui
Thuyền đã về bến ngủ
Biển mênh mông với trời
Anh còn gì cho em
Mặt trời lên chót đỉnh
Con đường trưa một mình
Anh đi trong bóng nhỏ
Bóng thu vào chân anh.
THÁI BÁ TÂN
Từ cuộc chiến tranh kia
Không hiểu sao gần đây
Đêm nào nằm cũng vậy
Tôi mơ toàn máy bay
Bom rơi và lửa cháy
Từ cuộc chiến tranh kia
Mà tôi không tham dự
Máy bay Mỹ lại về
Hoàn toàn không hung dữ
Chúng lặng lẽ tìm tôi
Chỉ tìm tôi, thật lạ
Rồi từ từ bom rơi
Nhẹ nhàng như chiếc lá
Bom nổ cũng rất êm
Không bị thương, máu chảy
Tôi nằm chết, trái tim
Chỉ trái tim bốc cháy.
Tôi kêu, tôi van nài
Hãy cứu tôi, và đợi,
Nhưng hình không còn ai
Muốn nghe và muốn thấy
Từ cuộc chiến tranh kia
Mà tôi như lẩn tránh
Nay chiến tranh lại về
Để làm tôi bất hạnh
Và cứ thế đêm đêm
Sau một ngày mỏi mệt
Dù không đau, dù êm
Tôi lại nằm, để chết!
1986
NGUYỄN ĐÌNH THI
Hoa không tên
Điểm biếc trên vách đá
Một đóa hoa
Bé nhỏ cười với núi mây lộng gió
Đóa hoa không quên
Từ rất xa
Từ rất lâu
Một ngày bỗng nở
Đóa hoa không tên
Từ rất lâu
Từ rất xa
1987
HỮU THỈNH
Em còn nhớ chăng
Ai đưa đò tình
Buộc vào bến lở
Còn lại mình anh
Gom từng mảnh vỡ
Tháo cả mái trời
Che không đủ ấm
Đội nghìn cơn mưa
Không nhòa kỷ niệm
Như cây tìm lá
Như cá tìm vây
Anh gọi khản lời
Chiều dang dở gió
Mở trăng ra tìm
Trăng còn in bóng
Mở cỏ ra xem
Cỏ còn hơi ấm
Hoa vẫn ngày nào
Không an ủi được
Tình bao nhiêu bậc
Em còn nhớ chăng?
Thu 1989
TRẦN HỮU THUNG
Khó ngủ
Trằn trọc hoài chẳng ngủ
Lòng ngổn ngang lo buồn
Nhỏm dậy ngồi thương mẹ
Thắp đèn lại nhớ con
Bên bình minh mặt bể
Bên bóng tà hoàng hôn
Mình cũng đầu nắng xế
Gió chiều se mây dồn
Ánh ngày dang cánh vỗ
Đỉnh đại ngàn chon von
Niềm riêng đây thương nhớ
Những băn khoăn bồn chồn
Thơ vẫn còn viết dở
Đời nắng mưa vẫn còn
Ôi khuya càng thêm vắng
Đầu phên thưa gió luồn
Đành pha ấm trà đặc
Ngồi thức trắng đêm luôn.
DIỆP MINH TUYỀN
Đêm trăng bên mồ Hàn Mặc Tử
Một đồi một biển một trăng
Một Hàn Mặc Tử vĩnh hằng nằm đây
Một tôi nay viếng chốn này
Một tim một óc... từng say thơ vàng
Bạc tình một kiếp thi nhân
Bạc duyên bạc số bạc thân xác người
Một xưa đen bạc cuộc đời
Một nay hết bạc chăng tôi với tình
Người nằm đây với một mình
Tôi thăm người với lặng thinh nỗi buồn
Một dòng suối một trăng non
Một tuôn xuống bể một tuôn lên đồi
Một tràn xuống với hồn tôi
Thành bài thơ nhỏ dâng người hôm nay
2-90
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Địa chỉ buồn
Nhà tôi ở phố Đạm Tiên
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu
Có mùi hương cỏ đêm sâu
Có loài hoa biết nuôi sầu tháng năm
Tôi về ngủ dưới vầng trăng
Có em từ chốn vĩnh hằng nhìn tôi
Tình xa, xa mãi trong đời
Tóc xanh tiên nữ rối bời trên tay
Tôi còn ngọn nến hao gầy
Cháy như nước mắt từ ngày sơ sinh
Tôi xin em chút lòng thành
Cài lên một phiến u tình làm hoa
Những chiều Bến Ngự giăng mưa
Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi
Tôi ra mở cửa đón người
Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang
Nhà tôi ở phố Đạm Tiên
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu
Cây sầu đông cây sầu đau
Thương tôi cây cũng nở màu hoa râm
Huế 89
ĐINH THỊ THU VÂN
Không đề
Anh đã ồn ào như chỉ biết vô tư
chẳng biết nhớ chẳng biết buồn và chưa hề xao động
em nhói buốt nhận ra mình lạc lõng
thương trái tim bé nhỏ tội tình!
như anh chỉ còn là của một mình anh
ly rượu đắng - niềm vui đang có thật
anh và bạn bè một niềm vui duy nhất
một tâm hồn không quá khứ, chẳng tơ vương
anh giấu đâu rồi những day dứt đau thương
cười cợt lắm và hồn nhiên quá đỗi
niềm vui trong men cay, niềm vui không đọng mãi
đớn đau nào ở lại cuối cơn say?
anh hãy dạt dào hãy khao khát, đầy vơi
đừng quên lãng thôi anh đừng quên lãng
xin đừng trốn mình trong men đắng
như bao lần em đã trốn lòng em
đừng như em bao lần vờ vĩnh hồn nhiên
uống nước mắt đầy hồn không để chảy
ôi nước mắt đắng cay đâu như rượu ấy
em uống một mình riêng lẻ một mình say
em uống một mình, nhưng làm sao uống giúp cho ai
giọt nước mắt ngược dòng tê tái chảy
giọt nước mắt chỉ riêng em nhìn thấy
Thôi xin đừng giấu nữa mến thương ơi!
BẰNG VIỆT
Ngày đã đứng trưa
Yêu đến nỗi trong lòng run rẩy mãi
Trưa lan xa bóng nắng đẫm vui buồn
Trưa đang đứng, còn đời mình đang chín
Giọt nắng vàng như mật sáng rưng rưng
Đã đứng rồi ư? Sao đời ngắn vậy
Nghĩ chưa xong, thời khắc điểm xong rồi
Đã chín rồi ư? Sao đời ngắn vậy
Quay lại nhìn, bao việc vẫn buông xuôi
Yêu đến nỗi trong lòng run rẩy mãi
Phút thiêng liêng thức tỉnh lại bao điều
Nhìn thấu suốt nhỏ nhoi và vĩ đại
Càng yên lòng rõi tới đích mình theo.
1991
(TCSH49/05&6-1992)
Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.
(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp: “Những lo toan năm tháng đời thường Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”
đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...
Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.
(Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.
Thơ là một bức xúc của tình cảm và tư tưởng con người, buộc con người phải diễn ra bằng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối. Thơ là đòi hỏi, là nhu cầu của con người, nếu không biểu lộ được ra thì còn bức rứt khổ sở.
(Đọc tập thơ “Thế giới và tôi” của Ngô Tự Lập)Tôi kém Ngô Tự Lập hơn chục tuổi nhưng không “trẻ” hơn anh. Tuổi trẻ làm ta cao ngất lên, tuổi già đôi khi cũng vậy. Nhưng cao ngất lên ta thấy gì nào?
“Tết không vào nhà tôi”(*)nghĩa là tết không vào nhà Phùng QuánCâu thơ tâm trạngVấn nạn một đời
Nhà thơ Phùng Quán trọn cuộc đời (1932 - 1995) là một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn xông xáo và nhiệt huyết.
Đầu những năm 61, Phùng Quán về lao động tại nông trường Thắng Lợi, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Quán ở đội 6 khai hoang, tôi ở đội canh nông Ngọc Ách từ trước.
Chỉ trong vòng 63 năm từ 1930 đến 1993, văn học Mỹ đã vinh dự nhận được 11 giải Nobel. Đây là một thành tựu vượt bậc đáng tự hào mà không phải bất cứ một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đóng góp vào ánh hào quang ấy có John Steinbeck - nhà văn lớn của văn học hiện thực Mỹ.
(Đọc “Thơ Trần Quốc Thực” – Nxb HNV 2007)Giữa rất nhiều giọng thơ khoa trương, khoe mẽ hôm nay, Trần Quốc Thực là một giọng thơ lặng lẽ đầy bản sắc. Sự ngại giao tiếp, sự âm thầm dâng hiến cho thơ của Trần Quốc Thực đã khiến cho nhiều người không biết đến thơ anh.
Văn học huyền ảo ra đời mang lại một thành tựu của phương pháp sáng tác. Một bước chuyển tiếp sau hàng thế kỉ từ cổ điển, lãng mạn, rồi hiện thực.
(Đọc lại "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa)Tôi đã viết vài dòng góp ý chân tình sau khi đọc lướt cuốn "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa thực sự hiểu được vấn đề cũng như dư luận đánh giá đúng cuốn sách thì tôi không đọc lại và cũng không viết nữa làm gì.
Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ. Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?Rất yêu. Yêu rất nhiều...
Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người
Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.
Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.
NGUYỄN THỤY KHA(Đọc “Gửi VB” thơ của Phan Thị Vàng Anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2006)Có một thời, người ta giấu kín nỗi cô đơn như một khuyết tật của mình để được hoà nhập vào đám đông ồn ào, hơn hớn lên đường, để được hy sinh và dâng hiến vô danh. Nhưng đã là khuyết tật thì có giấu mãi cũng đến lúc phải lộ ra, nữa là nỗi cô đơn không thể thiếu ở mỗi kiếp người. Mãi đến thời thanh bình, nỗi cô đơn của thân phận dần dà mới được nói ra.
Hoạ sỹ Đỗ Kỳ Hoàng nguyên ủy viên thường vụ Hội LH.VHNT TT.Huế, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật TT.Huế, nguyên giảng viên Đại học Nghệ thuật Huế v.v... đã từ trần ngày 26 tháng 10 năm 2006, hưởng thọ 75 tuổi.Thương tiếc người hoạ sỹ tài danh xứ Huế, Sông Hương xin đăng bài viết của nhà thơ Võ Quê và xin được coi đây như một nén hương tưởng niệm