Ngày giải phóng Huế và chút kỷ niệm với “Thi nhân Việt Nam”

14:46 01/06/2009
ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

Thầy giáo dạy văn lớp tôi là nhà giáo Nguyên Hồng, người quê xứ Nghệ. Dạy văn giỏi có tiếng. Tôi không hiểu bằng cách nào mà thầy Nguyên Hồng có được một bản in rô nê ô, chữ đã mờ cũ cuốn "Thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh - Hoài Chân. Hai tiết học giảng về dòng văn học lãng mạn, thầy giáo dạy văn đầy hứng khởi phân tích những câu thơ hay của các nhà thơ lãng mạn. Hình ảnh cô độc của một con hổ trong bài "Nhớ rừng" của Thế Lữ, nỗi buồn vạn cổ trong thơ Huy Cận, những câu thơ tình yêu của Xuân Diệu, nỗi niềm xa xót của một người dân mất nước trong thơ Chế Lan Viên... Những câu thơ lần đầu tiên chúng tôi mới được nghe thầy đọc bị khoả lấp đi trong tiếng máy bay F4, F105 của Mỹ bay xoẹt ngang trên đầu. Bom nổ rung chuyển cả bên Nam Định, tiếng đạn cao xạ nở lụp bụp trên trời.

Qua người em rể của thầy Nguyên Hồng tập in rô nê ô "Thi nhân Việt Nam" cũng đến được tay chúng tôi. Đám trẻ chúng tôi vốn ghét nhất giờ tập làm văn nhưng lại hay tò mò chép những bài thơ tình và đọc lén tiểu thuyết trong giờ học. Có được cuốn sách quý trong tay, thâu đêm suốt sáng, trong ánh đèn dầu chúng tôi chép từng bài thơ trong tập sách. Lần đầu tiên mới được đọc trọn vẹn bài viết của Hoài Thành - Hoài Chân: "Một thời đại trong thi ca", với những câu văn thật mượt mà, sáng lạ. "Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình của Lưu Trọng Lư..." Cùng với giọng văn ấy, ẩn hiện sau từng con chữ là hình bóng những "ông đồ già", là những cảnh chợ Tết, vốn đã bị khoả lấp trong ký ức trẻ thơ của tôi bởi những năm chiến tranh, giặc giã...

Trong đáy ba lô của đám học trò chúng tôi đi bộ đội năm ấy, nhiều đứa đã mang theo bản viết tay những bài thơ tình lãng mạn của Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên... Nhưng rồi chả ai giữ lại được sau những tháng hành quân cuốc bộ dọc theo dãy Trường Sơn. Hoặc là mưa thấm ướt. Hoặc là qua những cuộc kiểm tra quân trang. Người lính bộ binh mỗi ngày phải đeo 30 kg trên vai đi bộ, leo núi buộc phải vất bỏ đi những cái gì là không cần thiết để mang theo đạn và gạo...

Bởi vậy, ngày thành phố Huế giải phóng, lần đầu tiên khi đứng trước những đường phố dọc theo hai bờ sông Hương, nhìn những cửa hàng cửa hiệu hầu như còn nguyên vẹn, sáng choang ánh điện nê ông tôi ngỡ ngàng. Thành phố còn ngổn ngang sau cuộc tháo chạy hoảng loạn của hàng chục vạn quân ngụy. Chặng đường 10 cây số xuống cửa biển Thuận An xe pháo ngụy, áo mũ, ba lô, xe dân sự vất bỏ ngổn ngang. Các sư đoàn lính ngụy đã phải bắn giết, triệt hạ nhau để cướp tàu chạy vô Đà Nẵng. Ngay ở khuôn viên trường đại học sư phạm súng đạn, khí tài quân ngụy vứt lại giống như một kho vũ khí. Nhưng tôi không chú ý nhiều tới chuyện đó. Tôi ngơ ngẩn trước sông Hương nhìn hàng trăm con thuyền dày đặc như lá tre trên bến Đông Ba, An Cựu. Đâu đâu cũng rợp một màu cờ xanh đỏ.

Bước chân vào nhà sách Ưng Hạ, ở Huế lần đầu tiên tôi đã nhìn thấy cuốn "Thi nhân Việt Nam", trên bìa ghi rõ tên 2 tác giả Hoài Thanh - Hoài Chân, sách do Nhà xuất bản Hoa Tiên ấn hành. Bìa sách màu xanh da trời, rất đẹp. Thấy tôi hỏi mua sách, anh chủ tiệm vui vẻ và ngạc nhiên thấy một anh giải phóng đi mua "sách ngụy"!. Giá một cuốn sách là 10 đồng. Trong khi chỉ cần có 40 đồng là mua được một lượng vàng lá Kim Thành. Tôi mua 3 cuốn, với một ý định rõ ràng sau này có dịp về quê sẽ tặng lại cho thầy Nguyên Hồng - gọi là chút kỷ niệm của một học trò cũ.

Tôi gói kỹ 3 cuốn Thi nhân Việt Nam vừa mừng, vừa đói. Bát cơm tiêu chuẩn buổi sáng đã hết veo. Đúng khoảng gần trưa, một tiếng nổ long trời lở đất - như một trái bom phát hoả. Phía Nam sông Hương, trong khuôn viên của Trường đại học Sư phạm Huế khói bụi mù trời. Thì ra đám đại pháo, lựu đạn của tụi ngụy vất lại, một ai đó vô ý làm cho phát nổ. Tôi nằm ở vườn hoa phía Bắc sông, úp mặt xuống cỏ ôm chặt 3 cuốn sách vào bụng vẫn còn nghe tiếng mảnh đạn bay ràn rạt trên đầu, chém xuống nước. Khối đạn nổ đã đủ sức phá sập một góc cầu thang ngôi nhà chữ Y của Trường đại học Sư phạm Huế.

Ít năm sau, về học ở trường, thỉnh thoảng tôi và đám bạn vẫn hay ra ngồi ở trên đống gạch đổ nát nơi cầu thang gãy gập của ngôi nhà chữ Y ôn bài thi và ném lũ chuột cống chạy chui lủi trong đám cỏ rậm. Thỉnh thoảng chúng tôi còn lượm được những trái đạn cối cá nhân M72, vàng choé.

Tôi không ngờ 3 cuốn Thi nhân Việt Nam lại là một nguyên cớ để khiến tôi phiền lòng. Anh chính trị viên của đại đội tôi tên K. Hình như mới học xong cấp 2, có ông bố là cán bộ của huyện, nên anh chàng không phải đi bộ đội. K ở nhà làm ruộng và lấy vợ. Thời buổi chiến tranh, thanh niên trai tráng quý như vàng. K được bà con bầu vào Ban chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, được kết nạp Đảng. Dùi đăng mãi tới năm 71, K mới phải nhập ngũ, là đảng viên anh chàng được đi học sĩ quan 9 tháng, bổ sung vào trung đoàn huấn luyện, dẫn quân đi B. Ra Bắc vào Nam vài chuyến, mãi tới năm 1973, khi đưa quân vào chiến trường Trị Thiên, cán bộ thiếu, người ta giữ lại khung cán bộ đại đội, trung đội... K phải ở lại làm anh lính mặc quần đùi. Nhưng cái tính hay so đo, láu cá vặt của một anh đội trưởng đội sản xuất quen chia lúa, chia khoai chia rơm nhận phần hơn vẫn ẩn khuất trong K.

Thấy tôi đêm nào cũng ngồi đọc sách, lại hay hí húi ghi chép quá cả giờ báo ngủ của đại đội, K khó chịu. Nhưng không tiện hỏi. Dù sao tôi cũng là người đồng cấp với K. Rồi chuyện cũng đến tai tiểu đoàn. Một đêm, anh chính trị viên tiểu đoàn ghé thăm tôi. Sau một chén trà, anh chính trị viên tiểu đoàn nửa đùa, nửa thật hỏi: "Này, nghe anh em bảo ông hay đọc sách "ngụy" lắm phải không? Đọc chi dậy?". Tôi đang đóng quân tại một nhà dân ở ấp Xuân Hoà - Kim Long gia đình có mấy người đi dạy học, và đang học đại học văn khoa, khoa học Huế. Nghe anh ta hỏi vậy tôi đã hơi bực mình và biết là phải cần làm cho rõ. Tôi bước lại một giá sách rút ra mấy cuốn. Anh chính trị viên tiểu đoàn tròn mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy "Truyện Kiều", "Chiến tranh và hoà bình", "Những người khốn khổ", "Người xa lạ" (Anbe Camuys)... Anh chính trị viên tiểu đoàn tỏ ra là người hiểu biết. "Hoá ra trong này họ cũng in cả sách này à?". "Họ in cả Tư bản luận Mác - Ăngghen, cả JăngPônXác, cả Bôrits Patécnác...". "Vậy mà...."

Khuất sau hàng chè gai, tôi thoáng thấy bóng K. Tôi lờ như không biết. Và cũng lờ luôn cả chuyện bữa đánh chiếm làng Phú Lương B, khi mà tôi và hai trung đội đang bị cả một tiểu đoàn ngụy vây ép. Nhà cháy. Bộ đội hy sinh. Bộ đội phải đánh trả cả chục lần, địch tấn công vào làng, K và một trung đội nằm ém quân bên kia sông không chịu sang chi viện. Ôi! chuyện chiến tranh... Ít tháng sau, tôi rời quân ngũ để trở về với sách vở và học đường. Từ ấy đến nay tôi không còn có dịp nào để gặp lại K và anh chính trị viên tiểu đoàn nữa.

Cứ mỗi lần ra cửa hàng sách, nhìn thấy cuốn Thi nhân Việt Nam tái bản, dù bất cứ của NXB nào, bao giờ tôi cũng mua một cuốn. Xêri sách "Thi nhân Việt Nam" của tôi mỗi ngày một nhiều thêm. Đầu bảng vẫn là cuốn Thi nhân Việt Nam tôi mua được ở Huế ngày giải phóng. Âu cũng là một thú chơi sách. Để nhớ lấy một thời.

Đ.K.C
(174/08-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...