Nên bài xích lối văn không thành thực

11:03 09/10/2008
PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

Sau 6 năm viết báo trên đất Sài Gòn, khoảng tháng 3/1933, Phan Khôi trở ra Quảng Nam nghỉ ngơi tại quê nhà ít lâu rồi ra Hà Nội. Ở đây, từ tháng 5 đến tháng 7/1933, dưới bút danh Bướng Nhân ông viết cho Thực nghiệp dân báo trong mục “Bướng Nhân nhật ký”. Sau đó, ông và Tế Xuyên nhận lời với ông bà Nguyễn Văn Đa chủ báo Phụ nữ thời đàm đứng ra đảm nhiệm tờ này, đổi nó từ thể tài nhật báo sang thể tài tuần báo. Phụ nữ thời đàm tập mới đánh số lại từ số 1 (17/9/1933); Phan Khôi có bài đăng liên tục trong 22 số đầu, ký Phan Khôi, C.D., Hồng Ngâm, Tú Xơn; Phan Khôi quen biết Vũ Trọng Phụng có lẽ cũng từ hồi làm tờ báo này (họ Vũ đăng tiểu thuyết Dứt tình và viết phóng sự Vẽ nhọ bôi hề cho tờ này). Đến hết số 26 (5/6/1934) thì tờ này cũng phải đóng cửa, hình như do thua lỗ. Chưa rõ Phan Khôi còn viết cho tờ báo nào ở Hà Nội trong khoảng giữa năm 1934 hay không, nhưng chắc chắn là đầu năm 1935, ông vào Huế làm báo.  

Hai tờ báo mới ra ở Huế từ 1/3/1935 là tờ La Gazette de Hue (chữ Pháp) ra hàng tuần, tờ Tràng an (chữ Việt) ra 2 kỳ/tuần; chủ nhiệm cả hai tờ là Bùi Huy Tín; vai trò chủ bút tờ Tràng an báo được giao cho Phan Khôi. Ngoài các bài xã thuyết về thời sự xã hội ký tên Phan Khôi, ông còn mở nhiều mục cho các loại bài phiếm luận, tạp trở như “Có có không không”, “Nhớ đâu nói đó”, ông viết và ký Tuệ Tinh, C.D., Sao Đuôi…; mở mục “Chuyện rông” cho Hoài Thanh viết dưới bút danh Nhà Quê; rồi mục mở cho ngòi bút của Tiêu Diêu Tử (tức Tiêu Viên Nguyễn Đức Bính), cho Hương Giang Lão Nhân, Hương Giang Thiếu Niên (chưa rõ bút danh của ai), v.v…; quan hệ tốt giữa ông với cây bút trẻ Hoài Thanh từ Nghệ An vào cũng bắt đầu ở tờ báo này; chính tờ báo đã lên tiếng chúc mừng lễ cưới của người trợ bút báo mình là Nguyễn Đức Nguyên (Hoài Thanh) với cô Phan Thị Nga, con gái một y sĩ ở Hội An (Tràng an 30/9/1935); tờ báo trong thời gian Phan Khôi là chủ bút cũng là nơi đăng bài của Hoài Thanh trong cuộc tranh luận “vị nghệ thuật/ vị nhân sinh”; chính báo này đã ra số đặc biệt về ngày thất thủ kinh đô 23 tháng Năm năm Ất Dậu với các bài chủ lực của Phan Khôi và Hoài Thanh (Tràng an, 21/6/1935)…

Nhưng chính bài báo tôi giới thiệu dưới đây lại khiến Phan Khôi phải thôi chân chủ bút Tràng an, để ít lâu sau ra tờ Sông Hương, cũng tại Huế, do chính ông là chủ nhiệm kiêm chủ bút (ra được 32 số, từ 1/8/1936 đến 27/3/1937; sau đó bán lại tờ báo cho nhóm cộng sản Phan Đăng Lưu). Đó là nói vắn tắt về ba năm (1935-1937) Phan Khôi làm báo ở Huế.
Trở lại với bối cảnh của bài báo sẽ in dưới đây; khoảng cuối năm 1935, trong nội cung triều Huế có sự kiện là đám tang bà nội vua Bảo Đại; nhân đấy giới quan chức Nam triều tôn dâng khá nhiều bài văn phúng viếng. Phan Khôi đã chọn đăng trên báo mình một bài và sau đó đăng bài phê bình của mình, liền hai kỳ, trên số Tràng an cuối cùng của năm 1935 và số đầu tiên của năm 1936. Hẳn là bài báo đã gây phản ứng mạnh trong giới quan chức triều Nguyễn, vì chỉ một tháng sau, Tràng an ngày 4/2/1936 đã thông báo “vì một lẽ riêng, từ nay ông Phan Khôi thôi làm chủ bút bản báo”. Mấy tháng sau, từ 9/6/1936, Hoài Thanh và Phan Thị Nga cũng nói rõ trên tờ này rằng đã không còn làm trong toà soạn Tràng an nữa.

Tư tưởng về sự thành thực trong văn chương mà lâu nay ta chỉ được biết do những người như Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều đã thể hiện trong cuộc tranh luận với phái “vị nhân sinh”; nay với việc biết đến bài báo này, cần khẳng định rằng, trong phạm vi văn học sử Việt Nam thế kỷ XX, tư tưởng về sự thành thực trong văn chương có xuất xứ từ Phan Khôi, rằng Phan Khôi mới là người có bản quyền đích thực của tư tưởng ấy.
Về văn bản bài báo, vì số báo này nằm ở cuối bộ sưu tập Tràng an năm 1935 nên phần đầu bài báo (vốn được in ở phần trên của trang cuối) bị rách mất không ít (ước chừng mất 6 dòng, khoảng 40 từ); tên bài báo cũng bị mất, may mà có thể tìm lại ở kỳ đăng thứ hai trong bộ sưu tập Tràng an tiếp theo của năm 1936. Nhân công bố tư liệu này, tôi đề nghị bạn nào có nguồn bổ túc các đoạn còn thiếu ở bài này, xin cho chúng tôi biết.
LẠI NGUYÊN ÂN 
[……………………………………………………………………………………………….………………………………………………………………………………………………..………………………….........................……….] những bài văn không thành thực.

Và văn học là để biểu hiện nhân sanh và phê bình nhân sanh. Một nền văn học có giá trị, chẳng khác gì hơn là sự biểu hiện và sự phê bình của nó được đúng. Mà muốn như thế thì trong văn học phải chuộng sự thành thực làm đầu. Trái lại, không chuộng thành thực thì trong sự biểu hiện và phê bình đều là giả dối sai lầm cả, cái văn học ấy đã đành là không tiến bộ mà cũng trở nên vô giá trị nữa.
Tôi từng quan sát cái hiện trạng văn học xứ ta từ trước đến giờ, thấy được chỗ trở ngại ấy nên đã nhiều lần bàn với anh em làng văn rằng chúng ta cần phải đề xướng cái chủ nghĩa thành thực trong văn học mới được. Trong lúc dự bị làm công việc ấy, tình cờ gặp một dịp tốt khiến tôi có thể đem ý đó phát biểu ra đây.
Trong phụ trương Tràng an số 86 vừa rồi có đăng bài văn tế đức Thánh Cung của ông Nguyễn Mộng Thạch. Các bạn đọc đối với bài văn ấy, những người có óc cũ có lẽ sẽ hoan nghinh, nhưng những người có tư tưởng mới hẳn là không chịu nó cũng như chúng tôi không chịu nó. Đã không chịu nó mà còn đem đăng lên báo, chẳng qua chúng tôi muốn có cớ để phát luận hôm nay.  

Theo lối văn chương cũ mà nói thì bài văn tế đức Thánh Cung của ông Nguyễn Mộng Thạch đó không phải là hay nhưng cũng không đến nỗi dở. Nó là một bài văn sàng sàng, “vô cửu vô dự”. Nhưng khi phê bình nó ở đây, chúng tôi không kể đến sự hay dở mà chỉ kể đến chỗ nó có đứng được hay không đứng được mà thôi. Nghĩa là chúng tôi không nói đến phương diện nghệ thuật của nó mà chỉ nói đến cái tánh chất của bài văn.
Làm một cái kết luận sớm ở đây, tôi muốn nói ngay rằng bài văn của ông Nguyễn Mộng Thạch không đứng được, vì nó đeo một cái tánh chất hư ngụy, không thành thực.
Ở thế gian này bất kỳ cái gì giả dối đều không đứng được thì bài văn giả dối tất nhiên cũng không đứng được. Phận sự nhà văn chúng ta là phải hết sức bài xích những bài văn như thế, đừng cho nó lưu truyền ra trong văn giới.                

Thế nào là gọi bài văn ấy là không thành thực?
Trước hết nói về cách dùng chữ. Trong bài văn ấy tác giả chỉ dùng những chữ cho đẹp cho kêu chớ không cốt ở nghĩa lý có đúng cùng chăng. Đại khái như câu mở: Lầu phụng mưa chan, đài loan tuyết ủ, thì lầu phụng là lầu gì và đài loan là đài gì? Đã đành rằng phụng đối với loan thì đẹp và cân lắm nhưng còn nghĩa nó thì sao? Huống chi xứ ta từ xưa đến nay chưa hề có tuyết thì làm sao lại nói được rằng “tuyết ủ”? Tuy vậy những câu ấy chưa đáng tội gì mấy. Tác giả vì ham những chữ cho đẹp, đối nhau cho cân mà đã đặt ra những câu phạm tội nặng hơn, tức là cái tội vô nghĩa. Ấy là như câu “bể ái lưng vơi thành sầu xô đổ” thì còn có nghĩa gì? Xét lại bản ý của tác giả là cốt đem hai cái thành ngữ “bể ái” và “thành sầu” để đối với nhau nghe cho rột rạt mà thôi.

Thứ đến những chỗ kể đức tánh của đức Thánh Cung, nghe ra cũng vô vị nữa. Có lẽ tác giả tự cho rằng ca tụng một bà vua như vậy là đắc thể, nhưng theo chúng tôi tưởng thì thật chẳng có chút giá trị nào. Như những câu: “Nết đất từ hiền, tư trời nhân hậu… Vẻ đoan trang ít kẻ dám tày, gương trinh liệt lâu ngày còn rõ” thì dùng mà hình dung cái đức tánh của bà vua nào chẳng được, hà tất đức Thánh Cung?
Theo cái quan niệm về văn nghệ của chúng tôi, khi muốn biểu hiện cái đức tánh bình sanh của một người nào thì phải lấy những cái đặc tánh của người ấy mà biểu hiện. Khi nhận thấy người ấy không có cái đặc tánh gì hoặc có mà mình không nhận thấy được thì thà đừng biểu hiện còn hơn. Như thế, sự biểu hiện của văn nghệ mới có giá trị.
Còn tác giả đây hình như không nghĩ như chúng tôi vậy. Tác giả không cần nhận thấy đức Thánh Cung có đặc tánh gì cả, khi cầm bút tán dương ngài thì cứ khuân bao nhiêu những hình dung từ tốt cho đàn bà mà để vào đấy thôi. Bởi vậy những chữ “hiền từ, nhân hậu, đoan trang, trinh liệt” mới rủ nhau ra đứng sắp hàng trên mặt giấy! Như thế là lạm dụng. Khi một nhà văn đã lạm dụng những hình dung từ như thế thì thường thường phạm phải điều lỗi bởi sự bất ngờ. Tức như hai chữ “trinh liệt” ở đây là một cái lỗi lớn không tày đình cũng tày líp!

“Trinh liệt” là chữ để hình dung người đàn bà hay thủ tiết, thường khi là hy sinh tánh mạng để phản kháng sự cường bạo hoặc để tỏ lòng mình, như bà Nguyễn Thị Kim trầm mình, bà mẹ ông Bố Cao cắt vú mới đáng gọi là trinh liệt. Vậy thì đức Thánh Cung, theo cái địa vị của ngài và cái hoàn cảnh của ngài, làm thế nào cho ngài có cái đức “trinh liệt” ấy được ư? Cái đức ngài không thể có mà nhà văn trở đem gán cho ngài, điều ấy chẳng những là không thực mà người ta còn có thể gọi là “hót nhảm” được nữa!
Ông Nguyễn Mộng Thạch hẳn là một nhà nho, ông đã nhiễm cái thói ca tụng đế vương trong kinh điển. Kinh Thư ca tụng vua Nghiêu không còn sót một cái đức tốt nào là không có: khâm, minh, văn, tứ, doãn, cung, khắc nhương, rồi sau đến nải thánh, nải thần, nải võ, nải văn. Cũng bới những sự không thành thực ấy tràn ngập trong tư triều văn học nước ta, thành thử từ xưa đến nay các nhà văn đều mắc trong vòng giả dối mà không tự biết và cũng không tự thoát ra được. Kỳ thực, vua Nghiêu dù là người tốt cũng không có thể gồm đủ cả các tánh tốt của loài người như Kinh Thư nói; đức Thánh Cung dù có đức tánh hơn người cũng không phải là mọi nết mọi hay và hay đến cả cái không thể có được như ông Nguyễn Mộng Thạch tán dương đâu.

Thứ đến những chỗ kể công nghiệp của đức Thánh Cung, khiến kẻ đọc, ai có lương tâm, đọc đến đều phải lấy làm hổ thẹn, vì theo người quân tử, điều không có mà mạo nhận là có, chẳng gì đáng ngượng bằng.
Trong cả bài duy có câu này là dài hơi, dào ý, đối lại chỉnh nữa, có lẽ là câu tác giả dụng lực hơn hết, mà cũng duy có câu này là câu không thành thực hơn hết:
“Đoan đích Tiên triều noi dấu, lúc ở Tôn lăng lúc về cẩm điện, mực thước rõ ràng vẻ ngọc, cửa cung vi bền vững đến ngày nay;
Gian nan đại nghiệp dựng gầy, khi giao quý quốc khi ngự nội đình, phép khuôn đứng đắn lời tơ, nền khổn phạm giữ gìn theo lối cũ”.
Vế trên cũng cho được, thôi chẳng nói làm chi; duy vế dưới là đáng trách, mà đáng trách nhất là những chữ “gian nan đại nghiệp dựng gầy”.
Vả đức Thánh Cung được tuyển vào cung làm chánh phi triều Đồng Khánh, sau khi vua Cảnh Tôn băng, đáng lẽ con ngài là đức Khải Định được nối ngôi, mà đức Khải Định đã không được nối ngôi, thì đức Thánh Cung cũng phải về ở theo Tôn lăng. Đến ngày vua Duy Tân bị phế, đức Khải Định lập lên, bấy giờ đức Thánh Cung mới được lại vào ở trong Đại nội. Thế thì đừng nói việc lớn lao làm chi, cho đến việc được ở trong Đại nội hay bị ra là việc nhỏ mọn mà đức Thánh Cung cũng không tự chủ được, phải theo chồng theo con như một người đàn bà thường khác. Người đàn bà ấy, lạ thay, sao tác giả lại phóng đại cho bằng những chữ “gian nan đại nghiệp dựng gầy”?

Đại nghiệp tức là ngôi vua chớ gì? Đức Thánh Cung đã hề gầy dựng cái đại nghiệp ấy lúc nào? Kể một đời ngài: khi chồng làm vua thì ở chốn cung vi, khi con không được làm vua thì lui về nơi lăng tẩm, đến khi con được làm vua kế tới cháu thì ngài lại vào ở chốn cung vi rồi qua đời tại đó, nhưng cái ngôi vua ấy có phải chính tay ngài đã sáng tạo ra cho con cháu ngài đâu? Sự gầy dựng đã không, tự nhiên cũng chẳng có gì là gian nan nữa hết.  
Bốn chữ “khi giao quý quốc” cũng to quá. Quý quốc chẳng là nước Pháp. Đức Thánh Cung có khi nào đứng ra giao hảo với nước Pháp đâu? Các quan Toàn quyền, Khâm sứ đôi khi vào yết kiến ngài, những khi ấy ngoài sự giao tế cá nhân hẳn có đại biểu cho cả một nước Pháp chăng nữa, là cũng không được nhân đó mà nói rằng đức Thánh Cung giao với nước Pháp.

“Nền khổn phạm giữ gìn theo lối cũ”
, tác giả đã biết nói như vậy thì hẳn cũng biết cái lối cũ ấy nó là thế nào chớ. Theo Lễ, “lời nói ở trong chẳng ra đến ngoài”; theo Xuân Thu, “đàn bà không được giao với ngoại quốc”, vậy mà tác giả bảo đức Thánh Cung giao với nước Pháp, chẳng là vứt đi đâu mất cái lối cũ ấy còn gì?
Cái nghề hễ nói dóc quá rồi không tài nào giữ được, có khi chính mình lại mâu thuẫn với mình. Ở đây tác giả là ông Nguyễn Mộng Thạch chính đã phạm vào sự đáng kiêng kỵ ấy.  
Tiếp một câu nữa cũng kể công nghiệp đức Thánh Cung mà cũng không đúng lấy một chút nào:
“Từ năm trước ngự du ngoại quốc, khéo léo thay quyền nội trị, lời êm lẽ thuận, đình thần ai nấy khâm tuân;
Đến lúc nay giá phản bản triều, vững vàng đáng vị mẫu nghi, đức thấm ơn nhuần, thiên hạ thảy đều từ mộ”.                    

Đức Khải Định cùng đức Bảo Đại đều có ngự du ngoại quốc, nhưng đây chắc là nói về đức Bảo Đại. Theo thực sự, khi đức Bảo Đại ở bên Tây bảy tám năm, đức Thánh Cung ở nhà chẳng hề có khi nào “thay quyền nội trị” hết. Vì bản triều từ xưa có điều răn: “Mẫu hậu không được lâm triều thính chánh”, điều răn ấy lợi cho người ta thì bao giờ người ta cũng giữ. Huống chi gần nửa thế kỷ nay, quyền nội trị của nước Đại Nam là xứ Trung Kỳ này dần dần nắm cả trong tay chánh phủ bảo hộ; lúc Hoàng thượng ở bên Pháp, ở triều tuy có đặt thêm ông Thân thần nhiếp chánh, kỳ thực ông ấy chẳng có quyền gì hết mà quyền về Toà Khâm. Rất đỗi người đàn ông có danh phận đường đường đó mà còn chẳng thay quyền nội trị được thay, có đâu đến người đàn bà bệnh hoạn, nằm chờ số mạng ở chốn thâm cung?
Đến như “đức thấm ơn nhuần, thiên hạ thảy đề từ mộ”, − sự ấy, muốn kiếm lấy một vài điều để chứng thực, e cũng kiếm không ra.  

Cái sự nhà vua làm cho dân cảm ơn và ái mộ, chỉ duy có khi nào đủ quyền làm những việc như đại xá, giảm thuế, tha xâu là việc các vua ta hay làm từ triều Tự Đức trở về trước. Chứ còn hiện nay, chính Hoàng thượng cũng không có quyền làm những việc ấy; đến một bà mẫu hậu lại càng không có quyền làm, thì chẳng biết lấy gì mà đức thấm ơn nhuần? Chúng tôi vẫn biết mỗi khi tấn tôn huy hiệu đức Thánh Cung, đều có ban ân chiếu; những cái ân chiếu ấy muốn kể là đức là ơn cũng được. Nhưng khắp mười hai tỉnh chỉ có một số rất ít người, hoặc cha mẹ già của các ấn quan, hoặc người già, mụ goá được phong được thưởng, thì làm sao lại nói “thiên hạ thảy đều từ mộ” được, cho dù chữ “thiên hạ” ấy là khép nhỏ lại nội một nước Nam?

Người nào đã có cái kiến giải thành thực như chúng tôi vừa nói trên đó mà đọc đến những câu: “Hạc đã về nơi hoa biểu, để dân đen con đỏ luống trông… Nhớ nghĩa chung thiên, người ai chẳng đem lòng quyến chú?” thì cũng phải thẹn thầm, vì thấy mình cũng là dân đen con đỏ đây, cũng là người nước Nam đây mà chẳng hề có cái cảm tưởng thiết tha như tác giả nói, trong khi nghe tin đức Khôn Nguyên Thái hoàng Thái hậu thăng hà!
Thật, chúng tôi là người làm báo ở dưới chân liễn cốc mà cũng duy đến sau lúc được tin buồn ấy mới nghe người ta kể đến cái nhân cách của đức Thánh Cung ra sao. Người ta nói ngài có biết chữ Hán ít nhiều, thông hiểu việc bản triều lắm, và mỗi khi có ban phán điều gì, lời lẽ rất là đứng đắn. Cái nhân cách ấy vẫn đủ sanh lòng khâm kính của chúng tôi cũng như chúng tôi khâm kính một người khác có cái nhân cách ấy… 

Theo như lời những người đi coi đám từ trong Nội ra nói những lúc tế điện, lễ thần, xướng cử ai, Hoàng thượng đều không hề khóc. Có kẻ bảo như thế là nguội lạnh quá và trái lễ. Nhưng chúng tôi cho Hoàng thượng làm vậy là theo tánh tự nhiên của loài người. Chúng tôi chắc Hoàng thượng có lòng thương bà nội cũng như mọi người. Có điều đã già mà chết là sự thường, cái chết không có tức tối gì mà làm cho phải khóc thì không khóc được. Con nhà nho gặp đại tang, mỗi lúc xướng cử ai thì phải chiếu lệ ô hô hay hu hu ba tiếng, ấy là sự giả dối, chứ lễ gì? Nhắc câu chuyện này vào cho biết chỗ chí thân mà còn không khóc được thay, huống chi thần dân là người ngoài mà cho có được sự từ mộ ai bi như tác giả nói: “Muôn dặm non sầu, ngoài bể bạc tiếng đờn câm vỗ”?

Cả bài văn đều là không thành thực. Nó không đứng được. Làm văn như thế thà đừng làm còn hơn.
Nhân đây tôi sẽ viết thêm nhiều bài nữa để cổ động cái chủ nghĩa thành thực trong văn học.
P.K

(nguồn: TCSH số 223 - 09 - 2007)

 



---------------------
Nguồn :
Tràng an,  Huế, s. 88 (31/12/1935); s. 89 (7/1/1936)
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.

  • INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).

  • VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.

  • HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.

  • NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.

  • L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire  francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

  • NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).

  • ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre),  tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.

  • MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.

  • HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.

  • TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.

  • HOÀNG TẤT THẮNG                1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.