Nên bài xích lối văn không thành thực

11:03 09/10/2008
PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

Sau 6 năm viết báo trên đất Sài Gòn, khoảng tháng 3/1933, Phan Khôi trở ra Quảng Nam nghỉ ngơi tại quê nhà ít lâu rồi ra Hà Nội. Ở đây, từ tháng 5 đến tháng 7/1933, dưới bút danh Bướng Nhân ông viết cho Thực nghiệp dân báo trong mục “Bướng Nhân nhật ký”. Sau đó, ông và Tế Xuyên nhận lời với ông bà Nguyễn Văn Đa chủ báo Phụ nữ thời đàm đứng ra đảm nhiệm tờ này, đổi nó từ thể tài nhật báo sang thể tài tuần báo. Phụ nữ thời đàm tập mới đánh số lại từ số 1 (17/9/1933); Phan Khôi có bài đăng liên tục trong 22 số đầu, ký Phan Khôi, C.D., Hồng Ngâm, Tú Xơn; Phan Khôi quen biết Vũ Trọng Phụng có lẽ cũng từ hồi làm tờ báo này (họ Vũ đăng tiểu thuyết Dứt tình và viết phóng sự Vẽ nhọ bôi hề cho tờ này). Đến hết số 26 (5/6/1934) thì tờ này cũng phải đóng cửa, hình như do thua lỗ. Chưa rõ Phan Khôi còn viết cho tờ báo nào ở Hà Nội trong khoảng giữa năm 1934 hay không, nhưng chắc chắn là đầu năm 1935, ông vào Huế làm báo.  

Hai tờ báo mới ra ở Huế từ 1/3/1935 là tờ La Gazette de Hue (chữ Pháp) ra hàng tuần, tờ Tràng an (chữ Việt) ra 2 kỳ/tuần; chủ nhiệm cả hai tờ là Bùi Huy Tín; vai trò chủ bút tờ Tràng an báo được giao cho Phan Khôi. Ngoài các bài xã thuyết về thời sự xã hội ký tên Phan Khôi, ông còn mở nhiều mục cho các loại bài phiếm luận, tạp trở như “Có có không không”, “Nhớ đâu nói đó”, ông viết và ký Tuệ Tinh, C.D., Sao Đuôi…; mở mục “Chuyện rông” cho Hoài Thanh viết dưới bút danh Nhà Quê; rồi mục mở cho ngòi bút của Tiêu Diêu Tử (tức Tiêu Viên Nguyễn Đức Bính), cho Hương Giang Lão Nhân, Hương Giang Thiếu Niên (chưa rõ bút danh của ai), v.v…; quan hệ tốt giữa ông với cây bút trẻ Hoài Thanh từ Nghệ An vào cũng bắt đầu ở tờ báo này; chính tờ báo đã lên tiếng chúc mừng lễ cưới của người trợ bút báo mình là Nguyễn Đức Nguyên (Hoài Thanh) với cô Phan Thị Nga, con gái một y sĩ ở Hội An (Tràng an 30/9/1935); tờ báo trong thời gian Phan Khôi là chủ bút cũng là nơi đăng bài của Hoài Thanh trong cuộc tranh luận “vị nghệ thuật/ vị nhân sinh”; chính báo này đã ra số đặc biệt về ngày thất thủ kinh đô 23 tháng Năm năm Ất Dậu với các bài chủ lực của Phan Khôi và Hoài Thanh (Tràng an, 21/6/1935)…

Nhưng chính bài báo tôi giới thiệu dưới đây lại khiến Phan Khôi phải thôi chân chủ bút Tràng an, để ít lâu sau ra tờ Sông Hương, cũng tại Huế, do chính ông là chủ nhiệm kiêm chủ bút (ra được 32 số, từ 1/8/1936 đến 27/3/1937; sau đó bán lại tờ báo cho nhóm cộng sản Phan Đăng Lưu). Đó là nói vắn tắt về ba năm (1935-1937) Phan Khôi làm báo ở Huế.
Trở lại với bối cảnh của bài báo sẽ in dưới đây; khoảng cuối năm 1935, trong nội cung triều Huế có sự kiện là đám tang bà nội vua Bảo Đại; nhân đấy giới quan chức Nam triều tôn dâng khá nhiều bài văn phúng viếng. Phan Khôi đã chọn đăng trên báo mình một bài và sau đó đăng bài phê bình của mình, liền hai kỳ, trên số Tràng an cuối cùng của năm 1935 và số đầu tiên của năm 1936. Hẳn là bài báo đã gây phản ứng mạnh trong giới quan chức triều Nguyễn, vì chỉ một tháng sau, Tràng an ngày 4/2/1936 đã thông báo “vì một lẽ riêng, từ nay ông Phan Khôi thôi làm chủ bút bản báo”. Mấy tháng sau, từ 9/6/1936, Hoài Thanh và Phan Thị Nga cũng nói rõ trên tờ này rằng đã không còn làm trong toà soạn Tràng an nữa.

Tư tưởng về sự thành thực trong văn chương mà lâu nay ta chỉ được biết do những người như Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều đã thể hiện trong cuộc tranh luận với phái “vị nhân sinh”; nay với việc biết đến bài báo này, cần khẳng định rằng, trong phạm vi văn học sử Việt Nam thế kỷ XX, tư tưởng về sự thành thực trong văn chương có xuất xứ từ Phan Khôi, rằng Phan Khôi mới là người có bản quyền đích thực của tư tưởng ấy.
Về văn bản bài báo, vì số báo này nằm ở cuối bộ sưu tập Tràng an năm 1935 nên phần đầu bài báo (vốn được in ở phần trên của trang cuối) bị rách mất không ít (ước chừng mất 6 dòng, khoảng 40 từ); tên bài báo cũng bị mất, may mà có thể tìm lại ở kỳ đăng thứ hai trong bộ sưu tập Tràng an tiếp theo của năm 1936. Nhân công bố tư liệu này, tôi đề nghị bạn nào có nguồn bổ túc các đoạn còn thiếu ở bài này, xin cho chúng tôi biết.
LẠI NGUYÊN ÂN 
[……………………………………………………………………………………………….………………………………………………………………………………………………..………………………….........................……….] những bài văn không thành thực.

Và văn học là để biểu hiện nhân sanh và phê bình nhân sanh. Một nền văn học có giá trị, chẳng khác gì hơn là sự biểu hiện và sự phê bình của nó được đúng. Mà muốn như thế thì trong văn học phải chuộng sự thành thực làm đầu. Trái lại, không chuộng thành thực thì trong sự biểu hiện và phê bình đều là giả dối sai lầm cả, cái văn học ấy đã đành là không tiến bộ mà cũng trở nên vô giá trị nữa.
Tôi từng quan sát cái hiện trạng văn học xứ ta từ trước đến giờ, thấy được chỗ trở ngại ấy nên đã nhiều lần bàn với anh em làng văn rằng chúng ta cần phải đề xướng cái chủ nghĩa thành thực trong văn học mới được. Trong lúc dự bị làm công việc ấy, tình cờ gặp một dịp tốt khiến tôi có thể đem ý đó phát biểu ra đây.
Trong phụ trương Tràng an số 86 vừa rồi có đăng bài văn tế đức Thánh Cung của ông Nguyễn Mộng Thạch. Các bạn đọc đối với bài văn ấy, những người có óc cũ có lẽ sẽ hoan nghinh, nhưng những người có tư tưởng mới hẳn là không chịu nó cũng như chúng tôi không chịu nó. Đã không chịu nó mà còn đem đăng lên báo, chẳng qua chúng tôi muốn có cớ để phát luận hôm nay.  

Theo lối văn chương cũ mà nói thì bài văn tế đức Thánh Cung của ông Nguyễn Mộng Thạch đó không phải là hay nhưng cũng không đến nỗi dở. Nó là một bài văn sàng sàng, “vô cửu vô dự”. Nhưng khi phê bình nó ở đây, chúng tôi không kể đến sự hay dở mà chỉ kể đến chỗ nó có đứng được hay không đứng được mà thôi. Nghĩa là chúng tôi không nói đến phương diện nghệ thuật của nó mà chỉ nói đến cái tánh chất của bài văn.
Làm một cái kết luận sớm ở đây, tôi muốn nói ngay rằng bài văn của ông Nguyễn Mộng Thạch không đứng được, vì nó đeo một cái tánh chất hư ngụy, không thành thực.
Ở thế gian này bất kỳ cái gì giả dối đều không đứng được thì bài văn giả dối tất nhiên cũng không đứng được. Phận sự nhà văn chúng ta là phải hết sức bài xích những bài văn như thế, đừng cho nó lưu truyền ra trong văn giới.                

Thế nào là gọi bài văn ấy là không thành thực?
Trước hết nói về cách dùng chữ. Trong bài văn ấy tác giả chỉ dùng những chữ cho đẹp cho kêu chớ không cốt ở nghĩa lý có đúng cùng chăng. Đại khái như câu mở: Lầu phụng mưa chan, đài loan tuyết ủ, thì lầu phụng là lầu gì và đài loan là đài gì? Đã đành rằng phụng đối với loan thì đẹp và cân lắm nhưng còn nghĩa nó thì sao? Huống chi xứ ta từ xưa đến nay chưa hề có tuyết thì làm sao lại nói được rằng “tuyết ủ”? Tuy vậy những câu ấy chưa đáng tội gì mấy. Tác giả vì ham những chữ cho đẹp, đối nhau cho cân mà đã đặt ra những câu phạm tội nặng hơn, tức là cái tội vô nghĩa. Ấy là như câu “bể ái lưng vơi thành sầu xô đổ” thì còn có nghĩa gì? Xét lại bản ý của tác giả là cốt đem hai cái thành ngữ “bể ái” và “thành sầu” để đối với nhau nghe cho rột rạt mà thôi.

Thứ đến những chỗ kể đức tánh của đức Thánh Cung, nghe ra cũng vô vị nữa. Có lẽ tác giả tự cho rằng ca tụng một bà vua như vậy là đắc thể, nhưng theo chúng tôi tưởng thì thật chẳng có chút giá trị nào. Như những câu: “Nết đất từ hiền, tư trời nhân hậu… Vẻ đoan trang ít kẻ dám tày, gương trinh liệt lâu ngày còn rõ” thì dùng mà hình dung cái đức tánh của bà vua nào chẳng được, hà tất đức Thánh Cung?
Theo cái quan niệm về văn nghệ của chúng tôi, khi muốn biểu hiện cái đức tánh bình sanh của một người nào thì phải lấy những cái đặc tánh của người ấy mà biểu hiện. Khi nhận thấy người ấy không có cái đặc tánh gì hoặc có mà mình không nhận thấy được thì thà đừng biểu hiện còn hơn. Như thế, sự biểu hiện của văn nghệ mới có giá trị.
Còn tác giả đây hình như không nghĩ như chúng tôi vậy. Tác giả không cần nhận thấy đức Thánh Cung có đặc tánh gì cả, khi cầm bút tán dương ngài thì cứ khuân bao nhiêu những hình dung từ tốt cho đàn bà mà để vào đấy thôi. Bởi vậy những chữ “hiền từ, nhân hậu, đoan trang, trinh liệt” mới rủ nhau ra đứng sắp hàng trên mặt giấy! Như thế là lạm dụng. Khi một nhà văn đã lạm dụng những hình dung từ như thế thì thường thường phạm phải điều lỗi bởi sự bất ngờ. Tức như hai chữ “trinh liệt” ở đây là một cái lỗi lớn không tày đình cũng tày líp!

“Trinh liệt” là chữ để hình dung người đàn bà hay thủ tiết, thường khi là hy sinh tánh mạng để phản kháng sự cường bạo hoặc để tỏ lòng mình, như bà Nguyễn Thị Kim trầm mình, bà mẹ ông Bố Cao cắt vú mới đáng gọi là trinh liệt. Vậy thì đức Thánh Cung, theo cái địa vị của ngài và cái hoàn cảnh của ngài, làm thế nào cho ngài có cái đức “trinh liệt” ấy được ư? Cái đức ngài không thể có mà nhà văn trở đem gán cho ngài, điều ấy chẳng những là không thực mà người ta còn có thể gọi là “hót nhảm” được nữa!
Ông Nguyễn Mộng Thạch hẳn là một nhà nho, ông đã nhiễm cái thói ca tụng đế vương trong kinh điển. Kinh Thư ca tụng vua Nghiêu không còn sót một cái đức tốt nào là không có: khâm, minh, văn, tứ, doãn, cung, khắc nhương, rồi sau đến nải thánh, nải thần, nải võ, nải văn. Cũng bới những sự không thành thực ấy tràn ngập trong tư triều văn học nước ta, thành thử từ xưa đến nay các nhà văn đều mắc trong vòng giả dối mà không tự biết và cũng không tự thoát ra được. Kỳ thực, vua Nghiêu dù là người tốt cũng không có thể gồm đủ cả các tánh tốt của loài người như Kinh Thư nói; đức Thánh Cung dù có đức tánh hơn người cũng không phải là mọi nết mọi hay và hay đến cả cái không thể có được như ông Nguyễn Mộng Thạch tán dương đâu.

Thứ đến những chỗ kể công nghiệp của đức Thánh Cung, khiến kẻ đọc, ai có lương tâm, đọc đến đều phải lấy làm hổ thẹn, vì theo người quân tử, điều không có mà mạo nhận là có, chẳng gì đáng ngượng bằng.
Trong cả bài duy có câu này là dài hơi, dào ý, đối lại chỉnh nữa, có lẽ là câu tác giả dụng lực hơn hết, mà cũng duy có câu này là câu không thành thực hơn hết:
“Đoan đích Tiên triều noi dấu, lúc ở Tôn lăng lúc về cẩm điện, mực thước rõ ràng vẻ ngọc, cửa cung vi bền vững đến ngày nay;
Gian nan đại nghiệp dựng gầy, khi giao quý quốc khi ngự nội đình, phép khuôn đứng đắn lời tơ, nền khổn phạm giữ gìn theo lối cũ”.
Vế trên cũng cho được, thôi chẳng nói làm chi; duy vế dưới là đáng trách, mà đáng trách nhất là những chữ “gian nan đại nghiệp dựng gầy”.
Vả đức Thánh Cung được tuyển vào cung làm chánh phi triều Đồng Khánh, sau khi vua Cảnh Tôn băng, đáng lẽ con ngài là đức Khải Định được nối ngôi, mà đức Khải Định đã không được nối ngôi, thì đức Thánh Cung cũng phải về ở theo Tôn lăng. Đến ngày vua Duy Tân bị phế, đức Khải Định lập lên, bấy giờ đức Thánh Cung mới được lại vào ở trong Đại nội. Thế thì đừng nói việc lớn lao làm chi, cho đến việc được ở trong Đại nội hay bị ra là việc nhỏ mọn mà đức Thánh Cung cũng không tự chủ được, phải theo chồng theo con như một người đàn bà thường khác. Người đàn bà ấy, lạ thay, sao tác giả lại phóng đại cho bằng những chữ “gian nan đại nghiệp dựng gầy”?

Đại nghiệp tức là ngôi vua chớ gì? Đức Thánh Cung đã hề gầy dựng cái đại nghiệp ấy lúc nào? Kể một đời ngài: khi chồng làm vua thì ở chốn cung vi, khi con không được làm vua thì lui về nơi lăng tẩm, đến khi con được làm vua kế tới cháu thì ngài lại vào ở chốn cung vi rồi qua đời tại đó, nhưng cái ngôi vua ấy có phải chính tay ngài đã sáng tạo ra cho con cháu ngài đâu? Sự gầy dựng đã không, tự nhiên cũng chẳng có gì là gian nan nữa hết.  
Bốn chữ “khi giao quý quốc” cũng to quá. Quý quốc chẳng là nước Pháp. Đức Thánh Cung có khi nào đứng ra giao hảo với nước Pháp đâu? Các quan Toàn quyền, Khâm sứ đôi khi vào yết kiến ngài, những khi ấy ngoài sự giao tế cá nhân hẳn có đại biểu cho cả một nước Pháp chăng nữa, là cũng không được nhân đó mà nói rằng đức Thánh Cung giao với nước Pháp.

“Nền khổn phạm giữ gìn theo lối cũ”
, tác giả đã biết nói như vậy thì hẳn cũng biết cái lối cũ ấy nó là thế nào chớ. Theo Lễ, “lời nói ở trong chẳng ra đến ngoài”; theo Xuân Thu, “đàn bà không được giao với ngoại quốc”, vậy mà tác giả bảo đức Thánh Cung giao với nước Pháp, chẳng là vứt đi đâu mất cái lối cũ ấy còn gì?
Cái nghề hễ nói dóc quá rồi không tài nào giữ được, có khi chính mình lại mâu thuẫn với mình. Ở đây tác giả là ông Nguyễn Mộng Thạch chính đã phạm vào sự đáng kiêng kỵ ấy.  
Tiếp một câu nữa cũng kể công nghiệp đức Thánh Cung mà cũng không đúng lấy một chút nào:
“Từ năm trước ngự du ngoại quốc, khéo léo thay quyền nội trị, lời êm lẽ thuận, đình thần ai nấy khâm tuân;
Đến lúc nay giá phản bản triều, vững vàng đáng vị mẫu nghi, đức thấm ơn nhuần, thiên hạ thảy đều từ mộ”.                    

Đức Khải Định cùng đức Bảo Đại đều có ngự du ngoại quốc, nhưng đây chắc là nói về đức Bảo Đại. Theo thực sự, khi đức Bảo Đại ở bên Tây bảy tám năm, đức Thánh Cung ở nhà chẳng hề có khi nào “thay quyền nội trị” hết. Vì bản triều từ xưa có điều răn: “Mẫu hậu không được lâm triều thính chánh”, điều răn ấy lợi cho người ta thì bao giờ người ta cũng giữ. Huống chi gần nửa thế kỷ nay, quyền nội trị của nước Đại Nam là xứ Trung Kỳ này dần dần nắm cả trong tay chánh phủ bảo hộ; lúc Hoàng thượng ở bên Pháp, ở triều tuy có đặt thêm ông Thân thần nhiếp chánh, kỳ thực ông ấy chẳng có quyền gì hết mà quyền về Toà Khâm. Rất đỗi người đàn ông có danh phận đường đường đó mà còn chẳng thay quyền nội trị được thay, có đâu đến người đàn bà bệnh hoạn, nằm chờ số mạng ở chốn thâm cung?
Đến như “đức thấm ơn nhuần, thiên hạ thảy đề từ mộ”, − sự ấy, muốn kiếm lấy một vài điều để chứng thực, e cũng kiếm không ra.  

Cái sự nhà vua làm cho dân cảm ơn và ái mộ, chỉ duy có khi nào đủ quyền làm những việc như đại xá, giảm thuế, tha xâu là việc các vua ta hay làm từ triều Tự Đức trở về trước. Chứ còn hiện nay, chính Hoàng thượng cũng không có quyền làm những việc ấy; đến một bà mẫu hậu lại càng không có quyền làm, thì chẳng biết lấy gì mà đức thấm ơn nhuần? Chúng tôi vẫn biết mỗi khi tấn tôn huy hiệu đức Thánh Cung, đều có ban ân chiếu; những cái ân chiếu ấy muốn kể là đức là ơn cũng được. Nhưng khắp mười hai tỉnh chỉ có một số rất ít người, hoặc cha mẹ già của các ấn quan, hoặc người già, mụ goá được phong được thưởng, thì làm sao lại nói “thiên hạ thảy đều từ mộ” được, cho dù chữ “thiên hạ” ấy là khép nhỏ lại nội một nước Nam?

Người nào đã có cái kiến giải thành thực như chúng tôi vừa nói trên đó mà đọc đến những câu: “Hạc đã về nơi hoa biểu, để dân đen con đỏ luống trông… Nhớ nghĩa chung thiên, người ai chẳng đem lòng quyến chú?” thì cũng phải thẹn thầm, vì thấy mình cũng là dân đen con đỏ đây, cũng là người nước Nam đây mà chẳng hề có cái cảm tưởng thiết tha như tác giả nói, trong khi nghe tin đức Khôn Nguyên Thái hoàng Thái hậu thăng hà!
Thật, chúng tôi là người làm báo ở dưới chân liễn cốc mà cũng duy đến sau lúc được tin buồn ấy mới nghe người ta kể đến cái nhân cách của đức Thánh Cung ra sao. Người ta nói ngài có biết chữ Hán ít nhiều, thông hiểu việc bản triều lắm, và mỗi khi có ban phán điều gì, lời lẽ rất là đứng đắn. Cái nhân cách ấy vẫn đủ sanh lòng khâm kính của chúng tôi cũng như chúng tôi khâm kính một người khác có cái nhân cách ấy… 

Theo như lời những người đi coi đám từ trong Nội ra nói những lúc tế điện, lễ thần, xướng cử ai, Hoàng thượng đều không hề khóc. Có kẻ bảo như thế là nguội lạnh quá và trái lễ. Nhưng chúng tôi cho Hoàng thượng làm vậy là theo tánh tự nhiên của loài người. Chúng tôi chắc Hoàng thượng có lòng thương bà nội cũng như mọi người. Có điều đã già mà chết là sự thường, cái chết không có tức tối gì mà làm cho phải khóc thì không khóc được. Con nhà nho gặp đại tang, mỗi lúc xướng cử ai thì phải chiếu lệ ô hô hay hu hu ba tiếng, ấy là sự giả dối, chứ lễ gì? Nhắc câu chuyện này vào cho biết chỗ chí thân mà còn không khóc được thay, huống chi thần dân là người ngoài mà cho có được sự từ mộ ai bi như tác giả nói: “Muôn dặm non sầu, ngoài bể bạc tiếng đờn câm vỗ”?

Cả bài văn đều là không thành thực. Nó không đứng được. Làm văn như thế thà đừng làm còn hơn.
Nhân đây tôi sẽ viết thêm nhiều bài nữa để cổ động cái chủ nghĩa thành thực trong văn học.
P.K

(nguồn: TCSH số 223 - 09 - 2007)

 



---------------------
Nguồn :
Tràng an,  Huế, s. 88 (31/12/1935); s. 89 (7/1/1936)
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).

  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)