PHẠM PHÚ PHONG
Trong vô tận (Nxb. Trẻ, 2019) là cuốn sách thứ mười ba và là tiểu thuyết thứ tư của nhà văn Vĩnh Quyền.
Ảnh: internet
Mấy năm trước, tiểu thuyết Mảnh vỡ của mảnh vỡ viết về “nỗi buồn hậu chiến” của anh đã đoạt giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi tiểu thuyết 2011 - 2015 của Hội Nhà văn Việt Nam. Lần này, anh vẫn tiếp tục cảm hứng ấy, cố gom nhặt thêm những “mảnh vỡ” của từng số phận khi soi vào trong vô tận của đất trời, của không / thời gian, trở về với quá khứ để tìm câu trả lời cho hiện tại và chút nắng ấm ở tương lai.
![]() |
Không phải là tiểu thuyết lịch sử, nhưng cảm hứng về lịch sử, về ý thức tự cường, về biên giới biển đảo... chi phối tâm thức sáng tạo của tác giả. Cảm quan hiện thực dẫn dắt cái nhìn của người viết từ một ngôi nhà, một khu vườn, một gia đình, một gia tộc soi chiếu quang rộng ra lịch sử của cả đất nước xuyên suốt gần trọn cả thế kỷ (1916 - 2014). Trong một lần trao đổi với tác giả Vĩnh Quyền, nhà biên tập người Mỹ Zac Herman cho rằng: “Trong vô tận là chuỗi cảm hứng lịch sử ngược xuôi giữa 2014 và 1916, trải năm thế hệ một gia tộc lớn ở thành phố chứng nhân mọi biến động của lịch sử đất nước - Huế. Là tiểu thuyết đúng nghĩa, chỉ trên hai trăm trang, Trong vô tận bao chứa nhiều mảnh đời phức hợp và tập trung vào chủ đề lớn của thời đại: kết nối quá khứ để hoàn thiện bản thân. Nhân vật hầu hết ở tuổi hai lăm, vì vậy Trong vô tận cũng là chuỗi chuyện tình đa đoan theo dòng lịch sử” [trang bìa 4]. Có thể nói, đây là lối dựng truyện không có truyện, không kể được. Có thể nói gọn trong một câu: một đứa con ngoài giá thú, nghe tin cha đau nặng sắp mất, tìm về thăm. Hết! Nhưng nếu chỉ có vậy thì làm gì có tiểu thuyết, thậm chí không đủ dung lượng để viết một cái tin vắn trên báo. Từ cái cốt truyện giản đơn đó, người viết lồng thêm bao nhiêu chuyện về những mối tình của người cha xuất thân từ hoàng tộc, trong bối cảnh lịch sử của một dòng họ mấy đời gắn bó với đất nước, lồng trong câu chuyện có thật trong lịch sử về cuộc khởi nghĩa của Thái Phiên và Trần Cao Vân, trong đó có cả một “trời nhan sắc” tạo nên một vòng sinh quyển kiêm ái đa đoan của nhà yêu nước họ Thái. Vì vậy, trong ngổn ngang của những sự kiện, nhằm nêu bật cái “chủ đề lớn của thời đại” mà nhà dịch thuật kiêm phê bình văn học Zac Herman đã nói, còn có một chủ đề nằm ẩn sâu đằng sau câu chữ, như một dòng chảy ngầm xuyên thấm qua đất đai cây trái ruộng vườn, đó là tấm lòng yêu quê hương đất nước, là ý thức tự tôn dân tộc và bảo vệ chủ quyền về biển đảo, đề cao nguyên khí quốc gia: “Với một đất nước như Việt Nam, nếu được cho là cường quốc vào một thời kỳ nào đó, thì xuất phát điểm không hoàn toàn thuộc về thành tựu khoa học, kinh tế, quân sự mà chính là sự hưng thịnh của nguyên khí quốc gia. Nói cách khác, tùy thuộc vào việc đào tạo hiền tài và sử dụng hiền tài. Nguyên khí quốc gia còn là sức mạnh mở đường cho đất nước thoát khỏi cảnh lạc hậu và phiên thuộc nước lớn. Như trong bối cảnh đen tối cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, sĩ phu Việt Nam đã dấy lên một phong trào thức tỉnh vô tiền khoáng hậu khi thực hiện chương trình đào tạo cách tân với mạng lưới trường học “phi chính phủ”, thầy ăn cơm nhà đến lớp, trò đi học để làm người nước Nam mới, tân - nam - tử, chứ không để làm quan, và với nguồn tài trợ đến từ nhân dân, trong đó chủ lực là doanh nhân trí thức yêu nước” [tr. 222 - 223]. Ở chiều ngược lại, người viết lên án thực trạng về một bộ phận không nhỏ những người đang làm việc trong bộ máy nhà nước, nhưng thờ ơ với truyền thống lịch sử dân tộc: “Nhiều người Việt đang quên dần mình là ai, từ đâu đến, nếu làm một khảo sát không báo trước, tại một cơ quan nhà nước cấp trung ương cho chuẩn luôn, từ lãnh đạo đến văn phòng, mỗi người chỉ cần điền đầy đủ và theo thứ tự tên các triều đại trong lịch sử nước nhà vào một mẫu liệt kê, kẻ nào không khai được “lý lịch dân tộc” thì đuổi, tao bảo nhé, sẽ không còn một mống” [tr.16]. Thậm chí, có khi lòng tự hào dân tộc còn được người viết đẩy đến mức cao trào, trong đó có những điều mà trí tưởng tưởng của nhà tiểu thuyết khẳng định, cần phải có các nhà kinh tế, lịch sử kiểm chứng, khi chạm vào chân lý: “Trong báo cáo của Ngân hàng thế giới: Việt Nam năm 1820 - năm vua Gia Long băng hà sau mười tám năm tái thiết đất nước và khắc phục hậu quả hai mươi bảy năm nội chiến cũng như ngoại xâm - là một quốc gia có mức thu nhập bình quân đầu người tiếp cận ngưỡng trung bình thế giới, trở thành một trong năm nền kinh tế lớn khu vực Đông Á, điều mà đến nay, gần hai thế kỷ sau, người Việt chưa lặp lại” [tr.229]. Cứ thế, những trầm tư về dân tộc cứ đan cài, xuyên thấm mọi ngóc ngách không/ thời gian, chi phối cái nhìn và tâm thức sáng tạo. Cái nhìn chuyển dịch một cách năng động, làm thay đổi không gian địa lý, định hình một kiểu không gian nghệ thuật chuyển dịch theo hành động và tâm tưởng của nhân vật, có thể từ cửa sổ máy bay nhìn thấy cái vô tận của đất trời, nhưng cũng có thể định vị từ một khu vườn nhỏ, một phủ đệ ở Vỹ Dạ, đã trở nên hoang vắng cả trăm năm qua, nhìn sâu vào cái vô tận của lòng người, để rồi dẫn dắt thời gian “ngược xuôi” xoay chiều, đảo ngược giữa dòng chảy của lịch sử, gắn bó với những mảnh vỡ của đời người phận mỏng. Thời gian vật chất vẫn trôi theo dòng lịch sử nhanh đến chóng mặt, nhưng thời gian nghệ thuật dường như vẫn đứng yên trong tâm tưởng mỗi nhân vật, dừng lại một cá tính, một bản ngã, lặng lẽ nhìn thân xác ngày mỗi già nua, tàn úa. Rất dễ nhận ra hình tượng thời gian đứng yên, đưa ánh mắt săm soi nhìn bóng dáng từng con người đang trôi theo dòng đời bằng những bước chân buồn bã và đầy những bất trắc, âu lo.
Đặc điểm nổi bật trong thế giới nhân vật tiểu thuyết của Vĩnh Quyền là không có nhân vật xấu. Họ chỉ có cá tính khác nhau, dẫn đến lối sống khác nhau, chấp nhận và tôn trọng nhau, nhưng vẫn không loại trừ hoàn toàn xung đột tiểu thuyết. Đó là những mâu thuẫn, xung đột giữa hoàn cảnh và tính cách, hoặc xung đột ngay trong thế giới nội tâm của riêng mỗi người, khi đưa ra những phép ứng xử trong từng hoàn cảnh cụ thể. Mỗi nhân vật một cá tính, một lối sống và đều có bản lĩnh, biết chịu trách nhiệm về hành vi ứng xử của mình trong đời sống. Hoàng từng là sinh viên học viện ngoại giao, trở thành đại ca trong giới giang hồ, đã tự vẫn vì biết mình không thể vượt qua căn bệnh đồng tính. Tùng làm báo, có lối sống phóng khoáng tự do, chuyên viết về các “chân dài” trong làng giải trí, nhưng cuối cùng cũng có mặt trong vùng biển nóng của đất nước “cùng các nhà báo trong nước và quốc tế nói trước camera như gào, cố át âm thanh ầm ào của sóng gió, của vòi rồng và tiếng gầm rú bạo liệt của động cơ hàng chục tàu biển quần nhau với tốc độ cực đại” [tr. 235]. Rồi các nhân vật cùng thế hệ như Luân, Biên, Linh, dì Nhàn, hoặc các nhân vật thuộc các thế hệ trước như người ông, người cha, người cha nuôi, người mẹ Diệu Lành, vú Hạnh, hoặc các nhân vật có thật trong lịch sử được tác giả điểm xuyết từ thuở các vua Hùng dựng nước đến cuối triều Nguyễn và dừng lại đặc tả cuộc khởi nghĩa của Thái Phiên và Trần Cao Vân phò vua Duy Tân khởi nghiệp bị thất bại... Ngay cả cô gái “tóc vàng” người Mỹ tình cờ gặp trên máy bay tên là Fiona, tìm đến Việt Nam để chụp lại những bức ảnh nơi cha cô trước đây là lính Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã từng gây tội ác có lưu lại hình ảnh, cũng góp phần tô đậm cái chủ đề soi tìm ký ức, bởi “ký ức giúp con người hoàn thiện nhưng có thứ ký ức quá ngưỡng chịu đựng của một số người, trở thành nơi giam hãm. Với bộ ảnh ghi nhận cuộc hồi sinh nơi chiến trường xưa, tôi hy vọng sẽ đưa được cha tôi ra khỏi vùng ký ức thương tổn” [tr. 232 - 233].
Nghệ thuật tiểu thuyết là nghệ thuật kể chuyện. Người dẫn truyện trung tâm vẫn là nhân vật tôi - người con đang làm tiến sĩ sử học ở Mỹ về thăm người cha ốm sắp chết. Nhưng người dẫn chuyện còn là nhân vật tôi - người cha, người ông hay vú Hạnh, hoặc có khi tác giả trao cây bút cho chính nhân vật tự kể về cuộc đời mình. Là người có nội công thâm hậu, có trường lực trong nghệ thuật tự sự, người viết không cần rào đón, dẫn dắt xa xôi bằng những mỹ từ đậm chất “làm văn”, không cần mài dũa ngôn từ, cứ tự nhiên tung ra “chiêu thức” vẫn thu hút được người đọc. Đoạn văn sau đây, lướt nhanh về ngôi nhà với năm thế hệ sống qua một thời bi tráng của đất nước, từ tâm thế hiện tại chuyển qua một kịch bản lịch sử cuộc khởi nghĩa của Thái Phiên và Trần Cao Vân là một ví dụ về sự năng động và tài hoa của ngòi bút Vĩnh Quyền trong nghệ thuật tự sự: “Việc dịch ký sự của André Bernard dẫn tôi vào góc khuất quá khứ gia đình, gặp chân dung khác của người ông vốn lặng lẽ khó gần và thấp thoáng hình bóng người cố mãi lang thang vô định bên trời xa/ Thiên ký sự cũng cũng thúc đẩy tôi tìm đọc thêm, thu thập tư liệu về thế hệ thanh niên cùng thời với ông tôi, thời bi tráng đất nước mình, cho tôi cái nhìn tích cực hơn thế giới chung quanh, chẳng hạn ngôi nhà tôi đang sống không hẳn là không gian cũ kỹ u buồn, mà nơi đây tam đẳng thị vệ Tôn Thất Đề và suất đội Nguyễn Quang Siêu từng đón hai nhà yêu nước Thái Phiên, Trần Cao Vân tạm ẩn chờ gặp đức vua ban lệnh khởi nghĩa Duy Tân/ Cảm hứng lịch sử còn khuyến khích tôi phác thảo một kịch bản văn học điện ảnh” [tr.158]. Và, 61 trang tiếp theo viết về cuộc khởi nghĩa của hai nhà yêu nước như một kịch bản điện ảnh có thể dựng thành phim truyện đặc sắc...
Đọc Vĩnh Quyền không chỉ là tiếp cận một thế giới hình tượng sống động đa chiều kích, bằng một nghệ thuật ngôn từ có sức cuốn hút, mà còn có sự nặng đầy về tri thức văn hóa lịch sử của dân tộc. Điều quan trọng hơn, khi bắt nhịp cùng hơi thở nồng nàn của văn chương anh, những tri thức ấy như được người viết thổi hồn mình vào trong đó, tạo nên những sinh thể, trở nên sống động, quẫy đạp, đòi hỏi phải có sự đồng cảm, sẻ chia. Văn chương không chỉ là tư tưởng mà còn là văn hóa. Nhà văn không chỉ là nhà tư tưởng, mà trước hết, họ là những nhà văn hóa.
P.P.P
(TCSH370/12-2019)
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.
HUỲNH HẠ NGUYÊN (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...
LÊ MỸ Ý (L.M.Y): Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi
NAM NGỌC (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.
HOÀNG VŨ THUẬT (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.
ĐINH NAM KHƯƠNG (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao: “...Hình như hắn là nhà quê Hình như hắn từ quê ra...” (Gốc)
NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.
MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.