Năm 2002, đọc lại bài thơ "Chống tham ô lãng phí" Phùng Quán viết năm 1956

17:11 09/09/2008
NGUYỄN BÙI VỢI"Chống tham ô lãng phí" là một bài thơ về đề tài chính trị xã hội, một vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nó được viết ra năm 1956 khi miền Bắc sau chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ đang hàn gắn vết thương chiến tranh, khai hoang, phục hoá, tìm công ăn việc làm...

Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 chưa ráo mực thì bên kia giới tuyến tạm thời những lực lượng phản động chính trị đã âm mưu chia cắt vĩnh viễn đất nước, hô hào "Bắc tiến", lấp sông Bến Hải. Năm ấy, Đảng lại phát hiện ra những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chấn chỉnh tổ chức cần phải sửa sai...
Khó khăn trăm bề như thế, nhưng những cán bộ thoái hoá mất phẩm chất, vô trách nhiệm vẫn quan liêu, tham ô, lãng phí tiền bạc của Nhà nước và nhân dân.
Sau chín năm chiến tranh, nhiều người mệt mỏi, muốn "an phận thủ thường" hoặc muốn an nhàn hưởng thụ nhưng Phùng Quán thì không. Tiếp xúc với cuộc sống bề bộn, khó khăn trăm bề của đất nước sau chiến tranh, nhìn thấy đời sống nhọc nhằn của nhân dân lao động, không chịu được thói quan liêu, tham ô, lãng phí của một số cán bộ nhà nước thoái hoá, Phùng Quán thấy thơ không chỉ có nhiệm vụ ngợi ca, cổ vũ mà quan trọng hơn là phát hiện và chiến đấu chống lại cái xấu, cái ác. Là người lính đã đổ máu ở chiến trường, trong xây dựng hoà bình, anh sẵn sàng đổ máu. Anh viết bài thơ "Chống tham ô lãng phí" một cách quyết liệt. Anh viết theo mệnh lệnh của trái tim và tin như Mai-a-kốpsky: "Trái tim tôi thuộc về Đảng".
Là một nhà văn có tài, anh rất giỏi khai thác đời sống và tìm được những chi tiết rất đắt, rất động lòng:
Tôi đã gặp
Những bà mẹ quấn giẻ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo dây thép gai tay máu ròng ròng
Bới đồn giặc trồng ngô, trỉa lúa
Có những nơi:
Hai mùa rồi lúa không có một bông
Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ
Và thương sao "Những em thơ còm cõi/ lên năm lên sáu tuổi đầu/ cơm thòm thèm độn cám và rau/ Mới tháng ba đã ngóng mong đến Tết/ để được ăn no có thịt..."
Nông thôn thì thế, ở thành phố thì 'Những đêm mưa lất phất/ Đường mùa đông nước nhọn tựa dao găm/ Chị em công nhân đổ thùng/ Run lẩy bẩy chui hầm xí tối/ Vác những thùng phân/ Thuê một vạn một thùng/ Mấy ai dám vác/ Các chị suốt đêm quần quật/ sáng ngày vừa đủ nuôi con..."
Cách nhìn hiện thực đời sống một cách trần trụi như thế đã làm nổi đoá nhiều người. Họ thích cái thứ văn chương tô vẽ, đèm đẹp mà Xuân Diệu cho là "nước đường pha loãng". Có nói đến khó khăn, gian khổ thì cũng chỉ tí ti khó khăn, tí ti gian khổ, còn thuận lợi là chính, tốt đẹp là chính. Lối viết ấy người ta gọi là "tô hồng", còn viết như Phùng Quán thì bị chụp mũ là "bôi đen ", là phủ nhận thành quả của cách mạng.
Cùng lứa viết với Phùng Quán, năm 1956 tôi đọc bài thơ "Chống tham ô lãng phí " một cách thích thú và khâm phục. Tôi kính trọng sự dấn thân của anh như sau này (1982) khi đã phục hồi hội tịch Hội Nhà văn, anh đã viết:
Đã đi với nhân dân
Thì thơ không thể khác
Dân máu lệ khốn cùng
Thơ chết áo đắp mặt
                        (Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe)
Những năm ấy thơ phản ánh kịp thời các vụ việc: khai hoang, làm thuỷ lợi, làm bèo dâu, đắp đê chống lụt, vào tổ đổi công, vào hợp tác xã, nuôi lợn tập thể, tín dụng, ngân hàng, sinh đẻ có kế hoạch v..v. và v.v.
Những bài có vần nhạt nhẽo ấy, in xong là quên ngay nhưng được an ủi là loại thơ... có ích! Người ta chỉ cần nhà thơ phản ánh, cổ vũ, động viên, không ai khiến nhà thơ phát hiện!
Một triệu bài thơ không nói hết nhọc nhằn
Của nhân dân lao động
Đang buộc bụng thắt lưng để sống
Để dựng xây kiến thiết, nước nhà
Để yêu thương nuôi nấng chúng ta
Trước sau như một, nhà thơ quan tâm đến đời sống, đến giọt mồ hôi của nhân dân lao động. Những câu thơ không làm duyên làm dáng mà hộc lên từ những nỗi đời, những niềm thương cảm. Phùng quán nói có sách, mách có chứng:
Về Định mà xem
"Đài Xem Lễ" họ cao hứng dựng lên
Nửa chừng bỏ dở
Mười một triệu đồng giầm mưa giãi gió
Mồ hôi máu đỏ mốc rêu.
Mười một triệu đồng thời ấy, tính ra gạo, so với bây giờ là hơn 1 tỷ đồng, vâng hơn một nghìn triệu! Thì ra cái khái niệm "tiền chùa" xuất hiện trong cơ chế thị trường sau 1986 đã phục kích từ lâu trong xã hội ta.
Đất nước đêm nay không đếm hết người nghèo
Thiếu cơm, thiếu áo
Theo công bố năm 2002 của Unesco thì nước Việt ta sau nhiều năm phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, số người nghèo khổ hiện nay chiếm 32% dân số. Năm ấy ở tuổi ngoài 20, tôi đọc câu thơ tận đáy lòng của Phùng Quán, thấy nổi gai lên và bây giờ thấy Đảng và Nhà nước lo đau đáu việc "Xoá đói giảm nghèo" tôi mới thấy Phùng Quán là... tiên tri!
Đoạn cuối của bài thơ, tác giả như gầm lên gọi:"Bọn tham ô, lãng phí, quan liêu/...Lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo gầy/ Chúng nảy nòi sinh sôi như dòi bọ", gọi "những con chuột mặc áo quần bộ đội/ đục cơm khoét áo chúng ta/ ăn cắp máu dân đổi chác đồng hồ... Có người trách anh nặng lời nhưng tôi cho rằng nói như thế còn là nhẹ với bọn tham nhũng!
Năm 1956, năm Phùng Quán viết bài thơ này, nạn tham ô, lãng phí, quan liêu chưa trầm trọng và phổ biến như bây giờ. Mười ông cán bộ cụ Hồ thì chỉ một, hai người tha hoá, mất phẩm chất.
Còn bây giờ, tham nhũng đã trở thành quốc nạn. Nó hoành hành ở các ngành các cấp và chúng ta chưa có những biện pháp chống trả hữu hiệu. Hơn lúc nào hết, đồng tiền có sức mạnh tác oai, tác quái, chi phối xã hội, làm sai lệch lẽ phải, rối loạn kỷ cương. Một số cán bộ cao cấp ngoạm những đồng tiền vấy máu của băng đảng xã hội đen Năm Cam, cam tâm làm cái việc bảo kê, hèn mạt cho chúng nó giết người, cướp của, đánh bạc, cho vay nặng lãi, trừ khử lẫn nhau và phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của người nghèo.
Từ 46 năm trước, bài thơ "Chống tham ô lãng phí" đã là lời cảnh báo nghiêm khắc và chính xác của một nhà thơ tài năng và dũng cảm, đáng tiếc là nó đã bị xuyên tạc, bị vô hiệu hoá và tác giả của nó nhận đủ mọi oan khuất, thiệt thòi.
Năm 2002 đọc lại bài thơ "Chống tham ô lãng phí" thấy bài thơ vẫn nóng hổi tính thời sự, tính chiến đấu. Điểm tựa vững chắc của bài thơ là của nhân dân và Đảng.
                                                                                                 N.B.V

(nguồn: TCSH số 166 - 12 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VŨ TRỌNG QUANG

    I. HÀNH TRÌNH TẤT YẾU
    Bước chân bắt đầu từ khởi điểm Octavio Paz “Giữa im lặng và tiếng nói, đó là thơ”. Vậy thì im lặng hay lên tiếng, có người nói thơ là tiếng nói, và có người cho vô ngôn là một giá trị.

  • ROLAND BARTHES

    Trong cuộc chiến giữa bạn với thế giới, hãy đặt thế giới ở hàng thứ cấp (Franz Kafka)

  • LÊ QUANG THÁI 

    Việt Nam đã có thơ mới sánh cùng với thơ mới của các nước Nhật Bản, Trung Hoa, Indonesia; khác nhau ở chỗ phong trào thơ mới dậy lên sớm hơn hoặc muộn hơn ba năm mà thôi. Còn các nước Thái Lan, Lào và Campuchia không có chuyện thơ mới bởi lẽ tình hình văn nghệ thiếu điều kiện phát triển.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Cầm tay chưa muộn nối lời
    Nghiêng mình gửi mộng mây trời lang thang

                                   (Bùi Giáng)

  • VĂN GIÁ  

    Tôi bắt đầu nhan đề bài viết bằng một câu hỏi có vẻ như khá liều lĩnh? Nó sẽ lập tức dẫn đến một phản biện ngay sau đó: “Hay” là một cách nói định tính, không tường minh được, anh cho là hay, tôi cho là không hay, thậm chí là dở thì thế nào?

  • BỬU Ý

    (Nhân dịp giới thiệu tập sách của nhiều tác giả “Thơ Tân Hình Thức Việt - Tiếp nhận và sáng tạo” tại tòa soạn tạp chí Sông Hương, Huế, ngày 15.8.2014)

  • PHAN NGỌC THU

    Cùng với văn học cả nước, hiện nay, văn học ở mỗi vùng đất cũng đang đứng trước yêu cầu lớn lao của công cuộc đổi mới.

  • “Chúng sanh chìm bùn dục
    Những kẻ không thấy đời…”
                                        Subha.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊN

    “Cái hèn” này, gần đây, đã được một số người nói đến khi nhìn lại một giai đoạn văn học vừa qua. Nhưng tôi có cảm tưởng tác giả đó chỉ mới đủ dũng cảm để dám nói về “cái hèn” của mình so từ bên ngoài mình đưa tới mà thôi.

  • HOÀNG LONG

    Trên thế giới, thể loại truyện cực ngắn có nhiều tên gọi. Ngoài tên thông dụng nhất là “truyện cực ngắn” hay “truyện rất ngắn” thì còn có các tên truyện chớp, truyện ngắn ngắn…

  • LẠI NGUYÊN ÂN

    Khi bàn tới những vấn đề không đơn giản như quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, thiết tưởng chẳng những cần xét xem về mặt logic lý luận thì nên quan niệm thế nào cho thỏa đáng, mà còn cần xét về mặt lịch sử, quan hệ này đã được biểu hiện ra sao, thực chất của nó là gì, v.v…

  • ANH CHI

    Sau khi đọc tiểu luận Ý nghĩa một đời người của tôi trên tạp chí Nhà văn và Tác phẩm số Tết Giáp Ngọ 2014, nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện đã viết bài Về các tiểu luận cho là của Lê Tràng Kiều trong “Văn chương và hành động” (NV&TP số tháng 3 và 4/2014), ghi là “trao đổi với Anh Chi”. Nhưng, nội dung bài viết đó cho thấy anh chỉ hành xử với nhà văn Lê Tràng Kiều, và cách hành xử vẫn như cũ. Do vậy, tôi thấy cần phải viết bài tiểu luận này để trao đổi lại.

  • LGT: Bản dịch của chúng tôi lấy từ lời giới thiệu của Cheryll Glotfelty trong “Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học” do Cheryll Glotfelty và Harold Fromm chủ biên.

  • NGUYỄN HỮU LỄ

    ...Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ (1914 - 1987), quê ở xã Văn Dương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế trong một gia đình hoàng tộc. Bằng con đường tự học, Tôn Thất Dương Kỵ đã trở thành một nhà nghiên cứu lịch sử, một nhà giáo, đồng thời là một trí thức yêu nước, một chiến sĩ cách mạng…

  • TRẦN ĐÌNH SỬ - LÃ NGUYÊN

    (Nhân bài báo của Ngô Tự Lập Đọc sách “Lột mặt nạ Bakhtin - câu chuyện về một kẻ lừa dối, một chuyện bịp bơm và một cơn mê sảng tập thểcủa Jean - Paul Bronckart và Cristian Bota (Thụy Sĩ, 2011, 630 trang))

  • DƯƠNG PHƯỚC THU (Sưu tầm, giới thiệu) 

    LGT: Đã từng có một cuộc xướng họa thơ trên báo với số lượng người tham gia đông kỷ lục; 1324 lượt tác giả với 1699 bài họa. Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu lại Vườn thơ đoàn kết do Báo Cứu Quốc - nay là Báo Đại Đoàn Kết tổ chức xướng họa thơ cách đây đã 43 năm.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920.

  • LÊ DỤC TÚ

    “Chủ nghĩa nhân văn tôn giáo cũng là một nguồn cảm hứng của văn nghệ, đồng cảm với con người nhân đạo trong văn chương”...

  • MAI VĂN HOAN

    Ngôn ngữ nói chung và chữ tôi nói riêng, khi bước vào tác phẩm văn học cũng có số phận thăng trầm liên quan mật thiết đến những thăng trầm của lịch sử nước nhà. Tìm hiểu chữ tôi trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam là một đề tài khá lý thú. Ở bài viết này, tôi chỉ đi sâu khảo sát chữ tôi được thiên tài Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm Truyện Kiều.

  • NGÔ MINH

    Bản lĩnh văn hóa là cuốn sách gồm các bài báo và tiểu luận của nhà văn Tô Nhuận Vỹ do Nxb. Tri thức ấn hành năm 2014. Tôi đọc một mạch với sự xúc động và hứng khởi.