Năm 1902, Nguyễn Sinh Cung - Hồ Chí Minh theo cha chiêm bái đền Quả Sơn

07:48 18/06/2014

Đền Quả Sơn ở Bạch Ngọc nay là xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương thờ Lý Nhật Quang. Ngài là con thứ tám của vua Lý Thái Tổ, được phong tước Uy Minh vương. Mùa xuân năm 1902, Nguyễn Sinh Cung  trên nẻo đường theo cha đi dạy học, thăm thú quê hương có đến chiêm bái đền Quả Sơn - một trong bốn ngôi đền linh thiêng nhất của tỉnh Nghệ.

Cổng đền Quả Sơn - Ảnh: internet

Trong Địa chí "An Tĩnh cổ lục" của H.Le Bereton cho rằng: Xứ An Nam ở Nghệ An có bốn ngôi đền nổi tiếng linh thiêng nhất là Đền Cờn, Đền Quả, Bạch Mã, Chiêu Trưng.

Đền Cờn linh thiêng bậc nhất thờ "Tứ vị Thánh Nương linh hiển"ở làng Phương Cần, xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu.

Đền Bạch Mã có tên chữ là "Bạch Mã từ" ở thôn Tân Hà, nay thuộc xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, thờ tướng quân Phan Đà- một vị tướng trẻ của nghĩa quân Bình Định Vương Lê Lợi "Đô thiên Đại đế Bạch Mã thượng đẳng phúc thần".

Đền Chiêu Trưng trên núi Long Ngân, xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đền thờ Chiêu Trương đại vương Lê Khôi- một tướng quân của Bình Định Vương Lê Lợi.

Trong hai bản thảo còn dở dang của cha tôi, Nhà văn Sơn Tùng có tựa đề “Những chuyện Bác Hồ cả trăm năm chưa dễ thấu ngọn nguồn”và “Đào Tấn trăm năm nhìn lại”, có nhắc đến câu chuyện thủa nhỏ Bác Hồ theo cha chiêm bái đền Quả Sơn ở xã Bạch Ngọc (Bồi Sơn) huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.

*       *

*

Đầu xuân, tháng giêng, thường những người đi làm quan, đi dạy học hay đi làm ăn xa khắp nơi về quê ăn tết chưa trở lại nơi làm việc. Nhân dịp này, tiết trời mát mẻ quan Phó bảng Sắc đưa hai con trai, Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Côn (tên gọi Bác Hồ hồi nhỏ) đi thăm hỏi các ân nhân, bạn hữu đã giúp đỡ mình trong việc đỗ đạt vừa qua. Đi tìm hiểu thời cuộc và cũng là dịp để cho các con sớm được tiếp cận với các bậc đại khoa của thời đại, các nhà trí thức tiến bộ, biết được cuộc sống dân tình và ngoạn cảnh núi sông, đền đài trong tỉnh…Một lý do nữa, cụ Phó bảng muốn lên Võ Liệt (Thanh Chương) dạy học, theo lời mời của các gia đình trên đó, sau khi họ nghe tiếng cụ Phó bảng Sắc. Năm đó, Nguyễn Sinh Khiêm 14 tuổi, Nguyễn Sinh Côn 11 tuổi, Nguyễn Thị Thanh 18 tuổi.  Cô Thanh phải ở nhà chăm sóc bà ngoại và trông coi nhà cửa.

Theo lời ông Nguyễn SinhKhiêmkể lại với Nhà văn Sơn Tùng: “Ba cha con bác đi bộ, đi dịch độ từng chặng một”.

Đầu tiên là đến nhà một người bạn ở Cầu Rầm - Vinh để liên hệ cho hai anh em Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Côn bí mật theo học chữ Quốc ngữ, thăm quan Tổng đốc An Tĩnh Đào Tấn. Hôm sau, ba cha con cụ Sắc đi ra làng Đông Chữ, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An thăm thầy giáo Nguyễn Thức Tự đỗ Cử nhân khoa Mậu Thìn (1868), cùng khoa với cụ Hồ Sỹ Tạo. Qua núi Cấm sang đất Diễn Châu, ngắm nhìn đền Cuông nguy nga trên núi Mộ Dạ, ngắm thành Phủ Diễn xây cao, hào sâu bao quanh, vòng ngoài vòng trong thành. Trên mặt thành có xe song mã, tứ mã chạy trên đó…Vào thăm dinh Thự Hiệp biện Đại học sĩ Cao Xuân Dục ở làng Thịnh Mỹ để cảm tạ ơn "khoa thi Hội năm vừa qua nếu không có cụ Cao Xuân Dục tọa vị Chánh chủ khảo để phúc khảo thì hai thí sinh Phan Chu Trinh, Nguyễn Sinh Sắc lại bị đánh hỏng một lần nữa"

Sau khi từ biệt gia đình cụ Cao Xuân Dục, cha con cụ Phó bảng Sắc đi ra hướng Thành Trài, rẽ xuống làng Vạn Phần đến thăm và nghỉ ở nhà cụ Võ Tất Đắc mới từ quan về dạy học. Buổi chiều hôm sau qua làng Kim Lũy, nhờ cụ Tú Bùi Xuân Phong dẫn ra làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu thăm cụ Hồ Sỹ Tạo. Quan tri phủ Giải nguyên Hồ Sĩ Tạo là bạn thân của cụ Tú Hoàng Xuân Đường, thầy giáo của Đại học sĩ Cao Xuân Dục và quan Đốc học Trần Đình Phong. Nhờ có lời gửi gắm của cụ Hồ Sỹ Tạo nên cả hai người học trò này đã đứng ra giúp đỡ Nguyễn Sinh Sắc được vào học trường Quốc Tử Giám.

Sau vài ngày ở chơi và đàm đạo với các sĩ phu làng Quỳnh Đôi, ba cha con  quan Phó bảng Sắc quay về huyện Yên Thành, thămgia đình quan Đốc học Trần Đình Phong - đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mão (1879) ở làng Yên Mã và đi thăm các bạn đồng môn như Phan Tư Trị, xã Xuân Tiêu, Nguyễn Văn Tề, xã Quỳ Trạch…

Từ huyện Yên Thành qua núi “Tướng quân cụt đầu”, ba cha con cụ Phó bảng Sắc lên Đô Lương để xuôi đò dọc sang đất Thanh Chương. Bác Cả Khiêm bồi hồi nhớ lại:

- Hôm ba cha con bác đi qua xã Bạch Ngọc, thấy đền Quả Sơn uy nghi hơn cả đền Thục Phán An Dương Vương. Em Côn  ngạc nhiên hỏi cha:

- Chắc vị thần ni có công lớn lắm cho nên mới được dân làm đền thờ nguy nga, cha nhể?

- Con nghĩ hơi xốc nổi đó. Trong đám người làm quan có kẻ bất tài, đục khoét nhân dân, lại có người tài cao, đức trọng, làm lợi cho dân, được dân nhớ ơn làm đền thờ phụng. Con nên nhớ đền Quả Sơn ni là nơi thờ quan Lý Nhật Quang. Ngài là con thứ tám của vua Lý Thái Tổ, được phong tước Uy Minh Hầu. Năm Tân Tỵ, vua Lý Thái Tông cử Lý Nhật Quang vào làm quan coi giữ đất Nghệ. Ngài đã có công mở mang bờ cõi, dẹp yên giặc phía tây, phía nam của đất nước. Chính ngài đã giết chết vua Chiêm là Sạ Đẩu, khi SạĐẩu đem quân xâm lược nước ta. Nghề nông, nghề tằm tang, dệt lụa, đánh cá, làm muối được sớm thịnh hành khắp xứ Nghệ là do công lao của quan Lý Nhật Quang. Khi nghe tin triều đình vời Lý Nhật Quang trở về Thăng Long, dân Nghệ đã lũ lượt kéo đến tỉnh đường xin quan ở lại tiếp tục chăn dân. Nhưng ngài không thể làm khác với lệnh của triều đình được. Trên đường ngài về Thăng Long, bọn nịnh thần đã đón giết vì sợ có ngài tại triều đình thì chúng sẽ bị vạch mặt…Nhân dân Nghệ An nghe tin dữ ni đã tự ý để tang ngài và lần lượt làm ba mươi hai ngôi đền thờ Uy Minh Hầu Lý Nhật Quang.

Sau khi chiêm bái đền Quả Sơn, ba cha con quan Phó bảng Sắc ngồi đò sang đất Thanh Chương. Cụ Sắc ngồi dạy học ở làng Võ Liệt và gửi hai con ở trong nhà một người quen bên làng Nguyệt Bổng. Đất Thanh Chương cũng là nơi mà cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc ở lại dạy học lâu nhất. Hai làng Nguyện Bổng và Võ Liệt, Bác Hồ cũng để lại nhiều dấu ấn tuổi thơ.

Theo lời kể của Nhà văn Sơn Tùng, ông Cả Khiêm còn cho biết thêm: Đó là vào tháng giêng năm Nhâm Dần (1902). Qua các nơi thăm thú nghỉ ngơi, khi về đến Đô Lương chiêm bái đền Quả Sơn để sang đất Thanh Chương chỉ trước hoặc sau lễ hội đền Quả Sơn vài ngày.

- Chuyến đi ấy, ngoài việc dạy học thân phụ bác muốn đi gặp các nhà khoa bảng ở Quỳnh Đôi, ở Thanh Chương… để tìm hiểu tình hình chuẩn bị cho chuyến đi thứ hai cùng các cụ Nghè Ngô (Ngô Đức Kế), cụ Bảng Đặng (Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn), cụ Cử Vương (Cử nhân Vương Thúc Quý) đi ra Bắc tìm bạn đồng tâm sau ngày cụ Phan Bội Châu lập hội kín. Trong chuyến đi ra Bắc lần hai vào năm 1903, em Nguyễn Sinh Côn được theo cha ra Hà Nội, còn bác bị lên hạch ở bẹn không đi bộ dài ngày được, phải ở lại Quỳnh Đôi với quan Đốc Đặng Nguyên Cẩn tại nhà cụ Cử Hồ Phi Thống. Một cơ duyên đến sau này, con trai quan Đốc học Đặng Nguyên Cẩn là giáo sư Đặng Thai Mai kết duyên với con gái cụ Cử Hồ Phi Thống là Hồ Thị Toan. Bà Hồ Thị Toan là mẹ của giáo sư sử học Đặng Thị Hà – phu nhân cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

**

*

Tác giả Lê Vĩnh Thọ trong bài "Ngôi nhà thờ họ Lê Kim gắn liền với tuổi trẻ Hồ Chí Minh"(tạp chí Xưa &Nay,tháng 4 năm 2009) có viết:

 “Năm 1902, sau khi đậu phó bảng ông Nguyễn Sinh Sắc chưa ra làm quan mà đi dạy học ở Thanh Chương. Ông Nguyễn Sinh Sắc dạy học ở Võ Liệt, gửi hai con Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành ở nhà ông Lê Kim Tường, làng Nguyệt Bổng(bây giờ là xã Ngọc Sơn). Ông Lê Kim Tường là người tham gia cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng và đã hy sinh trong nhà lao Vinh. Vợ là bà Tôn Thị Chiêm con gái Cử nhân Tôn Huy Thân, cháu cụ Tôn Đức Tiến, thầy học của Giải nguyên Hồ Sĩ Tạo. Con trai bà, Tôn Thị Chiên là Lê Văn Hy sinh năm 1890 cùng tuổi với Bác Hồ. Ngày 16-5-2007, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An đã ký quyết định số 1696/QĐ xếp hạng nhà thờ họ Lê Kim(Tức nhà ở ông Lê kim Tường) xã Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ an là di tích lịch sử gắn liền với tuổi trẻ của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.

Theo tài liệu của Ban nghiên cứu lịch sự Đảng tỉnh ủy Nghệ An (1970) cũng xác định:"Năm 1902, một số gia đình ham học ở Võ Liệt (Thanh Chương) biết tiếng cụ Bảng, họ cho ông Đồ Cẩm tìm xuống làng Sen mời cụ Bảng về dạy học. Võ Liệt là nơi cụ ngồi dạy học lâu nhất ở Thanh Chương. Những học sinh của cụ mà chúng ta thường nghe nói là các ông Hàn Kháng, Tổng Vấn, Lê Thước, ông Cán, ông Nguyễn Dương, ông Vy, Phan Sĩ Bình, Nguyễn Hứa Đường…

Cậu bé Khiêm và Bác đều được cụ mang theo lên Thanh Chương nhưng ba người không ở một nhà. Ngoài Võ Liệt, cụ còn đi lại nhiều nơi ở làng Nguyệt Bổng, Tú Viêm và Xuân Lâm (quê cụ Đặng Thúc Nhẫn)".

**

*

Qua những tư liệu trên ta có thể nói mùa xuân năm 1902, Bác Hồ trên nẻo đường theo cha đi dạy học, thăm thú quê hương có đến chiêm bái đền Quả Sơn - một trong bốn ngôi đền linh thiêng nhất của tỉnh Nghệ An./.

[Viết theo tài liệu của nhà văn Sơn Tùng]

Nguồn: Sơn Định - TC Văn Hóa & Nghệ An
 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN CHINH VŨChỉ mấy ngày nữa là hết năm, vậy mà tôi vẫn chưa rời khỏi đất Tây Nguyên. Cái vùng đất đến lạ, tới được đã khó, đến lúc về lại cứ lần lữa, hết hẹn này qua hẹn khác.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                     Bút kýMỗi dân tộc đều có một quan niệm về sắc đẹp riêng, ví dụ tranh Tố Nữ là quan niệm về sắc đẹp của người Việt một thời nào. Tôi đi Tuyên Quang trong một tour du lịch mà tôi gọi là tour Lương Tâm, nghĩa là đến những nơi mà bất cứ ai là người Việt đều không thể không đến.

  • HỒ VĨNH(Thấp thoáng cố đô)

  • NGUYỄN VĂN DŨNG                        Bút kýMùa hè năm 1965, tôi nhận sứ vụ lệnh về dạy học ở trường Trần Quốc Tuấn - Quảng Ngãi. Biết tôi thích ngao du sơn thuỷ, đám đệ tử thân thiết khao thầy một chầu du ngoạn Lý Sơn.

  • NGUYỄN THỊ SỬU1. Thời gian là thước đo sự tồn tại của vạn vật trong vũ trụ bao la. Vạn vật luôn chuyển động và biến đổi không ngừng theo thời gian. Với người Ta Ôi, thời gian được tri nhận rõ nhất qua sự chuyển động và biến đổi của con trăng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây các nhà khảo cổ học nước ta đã phát hiện ra nhiều di tích quan trọng của một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo tại Cát Tiên, ở cả Bắc Cát Tiên lẫn Nam Cát Tiên trên vùng Đồng Nai Thượng.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ                     Ghi chépChúng tôi rời thị xã Điện Biên đã nhiều ngày và những hoạt động sôi nổi kỷ niệm 45 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã qua, nhưng những ấn tượng trong thời gian ở Điện Biên thì mãi còn đậm nét trong tôi.

  • VĂN HÁCHĐã bốn thập kỷ qua, nhiều thế hệ học sinh, nhiều thế hệ người Việt ta và cũng nhiều người trên thế giới đã từng quen, từng biết câu thơ:Mường Thanh, Hồng Cúm Him LamHoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng…

  • NGUYỄN HỮU NHÀNTương truyền đức Thánh Mẫu (mẹ Thánh Tản Viên) là người làng Yên Sơn. Chồng bà là người vùng biển. Họ dựng nhà, sống ở ngay dưới chân núi Thụ Tinh ngày nay gọi chệch là núi Thu Tinh. Một lần bà đi qua đồng Móng làng Tất Thắng ướm chân vào hòn đá to rồi về thụ thai ba năm mới sinh nở. Vì thế khi đang bụng mang dạ chửa bà đã bị dân làng đồn đại tiếng xấu về sự chửa hoang. Chồng bà nghi ngờ rồi bỏ vợ, về quê ở miền biển sinh sống.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUChỉ hai ngày sau khi nước rút, tôi lại chạy về huyện Phú Vang. Nắng vàng sau lụt, vào tiết lập Đông oi nồng như đổ lửa. Con đường nhựa từ Huế về biển Thuận An bị bùn, đất, cát phủ dầy hàng gang tấc có đoạn lên cao cả thước, xe chạy người chạy vội vã cuốn bụi tung mù trời, hai bên lề đường ngấm nước lũ được đánh dấu bằng rác rều cỏ cây đeo bám vật vờ cao qúa đầu người. Mùi bùn non, rong rêu, xác chết gia súc gia cầm tấp vào, mùi ủng mục của lúa gạo ngấm nước bạc bốc lên tanh hôi khó chịu.

  • YÊN CHÂUQuảng Điền là một trong những huyện bị lũ lụt nặng nhất Thừa Thiên.Có thể kể ra đây mấy con số: 42 người chết, 13.000 tấn lúa bị thối, 3078 con trâu bò bị chết, 34 cây số đê bị vỡ.

  • NGUYỄN THỊ SỬU Cư trú trên dãy núi Trường Sơn kéo dài từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Trị của lãnh thổ nước ta, dân số Ta-Ôi chỉ 34.960 người (theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999) và ít được biết đến. Nhưng khi đi sâu vào đời sống văn hóa, chúng ta mới thấy sự kỳ thú, kỳ vĩ của dân tộc này. Với tư cách là một thành viên bản địa của cộng đồng tộc người Ta-Ôi và sau một chuyến khảo sát điền dã khắp 21 xã, thị trấn của huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế, chúng tôi phát hiện ra một nét văn hóa đặc sắc có tính truyền thống của dân tộc Ta-Ôi. Đó là Trách nhiệm cộng đồng.

  • HOÀNG CÁTVới riêng tôi, thì những cái địa danh bình thường, thuộc nông thôn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Thừa Thiên Huế như: Triều Dương, Cao Xá, Quảng Thái, Phong Chương, Phù Lai, An Lỗ, Đồng Lâm, Phong Sơn, xóm Khoai, xóm Mắc vv… từ lâu đã trở thành một phần máu thịt của tâm hồn mình, của ký ức mình; chưa bao giờ - và sẽ không bao giờ - tôi nguôi quên cho được.

  • NGÔ MINH             Ghi chép

  • NGUYỄN THANH TÚ                          Bút ký Bến phà Xuân Sơn nằm trên dòng sông Son thơ mộng ở đoạn thượng nguồn. Từ đây đi bằng thuyền máy khoảng nửa giờ đồng hồ ngược lên phía tây sẽ đến động Phong Nha. Anh Lê Chiêu Nguyên cán bộ hướng dẫn của Trung tâm du lịch văn hóa sinh thái Phong Nha - Kẻ Bàng đã nói như vậy khi đoàn chúng tôi chuẩn bị lên thuyền làm cuộc hành trình tới hang động mà UNESCO vừa công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.

  • NGUYỄN THẾTừ Huế, muốn đến khu nước khoáng nóng Thanh Tân, ta cứ theo Quốc lộ I ra phía Bắc, đi khoảng 20 km, tới cầu An Lỗ; qua cầu, rẽ trái theo tỉnh lộ 11, đi khoảng 12 km là đến. Còn nếu đi từ hướng Quảng Trị vào, đến km 26, rẽ phải vào cổng làng Đông Lâm thẳng theo con đường trải nhựa khoảng 7 km, gặp tỉnh lộ 11, rồi rẽ trái 1km.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                       Ghi chépNói đến Vĩnh Linh, không ai không nhớ hai câu thơ đầy hãnh diện của Bác Hồ tặng cho mảnh đất này:                “Đánh cho giặc Mỹ tan tành                Năm châu khen ngợi Vĩnh Linh anh hùng”

  • …Chưa bao giờ các văn nghệ sĩ Huế lại tranh thủ “đi” như ở Trại viết này. Không chỉ “săn” cảnh đẹp, người đẹp, các anh còn chú trọng hơn những nét đẹp trong lao động sản xuất của người dân Bà Rịa-Vũng Tàu…

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG                                Bút ký...Bảy trăm năm trở về với Đại Việt, lịch sử đèo Hải Vân đã dày lên cùng với lịch sử nước Việt. Đó là những trang sách được viết bằng mồ hôi, máu và số phận của cả một dân tộc. Ngày Huyền Trân đi qua cửa Tư Dung (Tư Hiền ngày nay), nàng đã nhìn thấy gì nếu không phải là con ngựa trắng tung bờm lao ra biển đông, và đèo Hải Vân cao mịt mùng đã lặng lẽ đưa một Chiêu Quân vì nước non ngàn dặm ra đi. Cuộc vu qui nhiều nước mắt ấy theo tôi là trang sử đầu tiên của đèo Hải Vân. Để sau đó nơi hiểm trở này đã tiễn chân Cao Bá Quát, cái ngày ông đi giang hồ rèn chí, con chim hồng quì chân uống nước sông Trà mà vọng về phương Bắc lòng tha thiết nhớ quê...

  • NGUYỄN VĂN VINH                                 Bút kýAi về cầu ngói Thanh ToànCho em về với một đoàn cho vui