PHẠM XUÂN DŨNG
Tôi và nhiều bạn bè sinh viên còn nhớ nguyên vẹn cảm giác lần đầu nghe bài thơ “Đêm qua” của nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đêm cư xá Huế lạnh và buồn đến nao lòng tê tái.
Ảnh: internet
Từ bấy đến nay dễ đã hơn một phần tư thế kỷ. Thời gian đủ để cho nhiều người đã đổi thay yêu ghét. Riêng tôi, vào những lúc bằng an và cả những khi lòng ngổn ngang trăm mối, vẫn nhớ đến những câu thơ xa xăm sương khói như ở một nơi chốn nào vọng lại mà gần gụi lắm, tri âm lắm với những vui buồn bắt đầu từ một bóng dáng người đẹp ở rừng Trường Sơn năm ấy.
Thôi em cảm tạ bàn tay
Anh so đời với tháng ngày trống không
Đêm qua trời đất mông lung
Có con chim nhạn bềnh bồng trong sương
Cứ điệp khúc “thôi em...” cứ luyến láy như một tiếng thở dài tiếc nuối cho những tháng ngày đã qua và những gì tốt đẹp mà thời gian cứ lặng lẽ vô tình bôi xóa. Từ cảm tạ với những vật hữu hình cụ thể như bàn tay con gái, bài thơ như một quán tính mộng du thi sĩ cuốn ta đi theo những liên tưởng trừu tượng, siêu hình hơn vào cõi mê buồn:
Thôi em cảm tạ chờ mong
Ngày anh đi hái phù dung chưa về
Đêm qua hương đã tàn mê
Mày ai còn dấu trăng thề như in
Thôi em cảm tạ ngày xanh
Trái cây chín đỏ trên cành mộng mơ
Đêm qua đứng ngóng bơ thờ
Mưa thời gian đã giăng mờ bên sông
Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, ở những bài để lại nhiều dư âm dư vị bao giờ cũng xa xôi sương khói, bảng lảng u huyền như ở một ngôi đền cổ u tịch bên rừng hoang sông vắng. Người đẹp hiện ra nửa thực nửa hư trong khói sương huyền thoại như có như không. Hoàng Phủ có lần nhận xét rằng nhạc Trịnh khi nói những điều buồn bã, cay đắng về thân phận con người thường gởi gắm vào một nhan sắc nào đó để bài hát bớt xót xa. Thơ Hoàng cũng vậy, những suy tư, triết lý đượm buồn cũng vịn vào một người con gái. Cái đẹp hiện ra như một sự an ủi tâm hồn, lại đôi khi như một phép màu cứu rỗi tâm linh. Mặc dù nếu đọc kỹ thơ Hoàng, nhiều lúc thấy bóng dáng người đẹp chỉ càng tăng thêm nỗi cô đơn thi sĩ. Dường như đó cũng là nghịch lý cuộc đời hay nghịch lý thi ca!
Thôi em cảm tạ con người
Đã thương đã ghét giữa đời vắng không
Đêm qua rơi xuống cội lòng
Vàng im ngọn lá ngô đồng thiên thu
Bây giờ đã hết trò chơi
Đã tàn cuộc rượu cho người ra đi
Đêm qua chẳng biết làm gì
Muốn tìm về gã Trương Chi nghe đàn
Đó là những cảnh tượng tâm trạng chứ không phải là những cảnh tượng cuộc đời. Chỉ là mới đêm qua thôi mà nghe đã xa xôi ký ức, dù có bóng hình chín vía hiện ra vẫn thấy mênh mang, quạnh quẽ nỗi buồn, một nỗi buồn sâu xa, thánh thiện tạo nên giống nòi thi sĩ. Giọng thơ đều đặn vang lên như một hồi chuông nguyện cầu cho ai đó trong đời hay vỗ về cho chính bản thân với nỗi buồn đơn chiếc.
Thôi em thăm thẳm Trường sơn
Ngày xưa anh vẫn cô đơn đã thường
Đêm qua nằm nhớ mưa nguồn
Con chim tắt lửa kêu buồn mấy năm
Thôi em ròng rã suối khe
Anh về mắc võng nằm mê đợi người
Hôm qua có lũ đười ươi
Lang thang rũ một trận cười trong mây.
Điệu buồn rừng cũ vẫn hiện ra như một ám ảnh khôn nguôi mà lắm khi dù người mộng về bên cũng đành thở dài bất lực, để cho người thơ nằm đợi chiêm bao với hy vọng mong manh được ngược về quá vãng. Chân dung nhà thơ là chân dung tâm trạng được phủ lên một màn khói sương xa vắng của đền đài, mộng mị xa xôi.
Bài thơ “Địa chỉ buồn” cũng là một lời tự bạch riêng tư:
Nhà tôi ở phố Đạm Tiên
Dưới sông nước chảy bên trên có cầu
Có mùi hương cỏ đêm sâu
Có loài hoa biết nuôi sầu tháng năm.
Đây là cảnh tượng có thực của một địa chỉ cụ thể, nơi mà nhà thơ từng sinh sống nhiều năm. Nhưng địa chỉ thì độc đáo: địa chỉ buồn như chính tên gọi của bài thơ. “Nhà tôi ở phố Đạm Tiên”! Cái thực đã được ảo hóa, buồn hóa, chọn tên gọi nhà mình như muốn vận vào đời, như đã vận vào đời tài hoa đa đoan, trắc trở. Người đẹp Đạm Tiên xuất hiện như một tin buồn linh nghiệm được báo trước, như một lựa chọn không thể chối từ. Nhưng chớ vội nghĩ chuyến viếng thăm định mệnh của Đạm Tiên là chỉ là đau khổ. Vì đó không chỉ là cay đắng mà còn là sứ mệnh, là vinh quang của loài thi sĩ. Thiên sứ buồn và gánh vác nỗi buồn hành hương cho trọn kiếp!
Tôi về ngủ dưới vầng trăng
Có em từ chốn vĩnh hằng nhìn tôi
Tình xa, xa mãi trong đời
Tóc xanh tiên nữ rối bời trên tay
Tôi còn ngọn nến hao gầy
Chảy như nước mắt từ ngày sơ sinh
Tôi xin em chút lòng thành
Cài lên một phiến u tình làm hoa.
Rồi cũng phải nương tựa vào cái đẹp mà buồn, mà sống, dẫu biết trăm nghìn lần chưa hết phù du. Nhưng có hề chi, một chút lòng thành thôi cũng đã thành vương miện, cũng đã siêu thoát cho biết mấy linh hồn.
Những chiều Bến Ngự giăng mưa
Hình như ai đó mơ hồ gọi tôi
Tôi ra mở cửa đón người
Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang.
Thơ như vậy đã chạm đến những miền sâu thẳm của nỗi lòng và như một phép gọi hồn nhiệm màu linh ứng. Thơ của tâm linh! Nhà thơ đã vẽ nên một chân mày sắc đẹp tri âm run rẩy nỗi buồn.
Một hạnh phúc lớn của nghệ sĩ là được hóa thân. Sau khi đã phiêu bồng, mộng mị theo gió núi, mây ngàn, người đẹp muôn kiếp trước, thi nhân lại muốn “Về chơi với cỏ”:
Thưa rằng người đã quên tôi
Tôi về chơi với ngọn đồi cỏ may
Một đường hang, một dấu giày
Một người ngồi một tháng ngày bóng nghiêng
Cảm ơn người trái đào tiên
Tôi về lãng đãng nơi miền cỏ gai
Cỏ gai hoa thắm mặt người
Trinh nữ ơi, trinh nữ ơi - tôi buồn.
Người thơ vẫn không nguôi khao khát hóa thân, phân thân nên dù đã dặn lòng vô tư về chơi với cỏ vẫn cứ cố tình lạc vào cổ tích để thêm một lần được sống vẹn nguyên ý nghĩa con người bằng chính bản lai diện mục. Và người đẹp vẫn hiện ra trong khói hương huyền thoại, trong sắc màu cỏ hoa trinh nữ như một nhiệm màu không thể chia ly. Còn nỗi buồn đã mang tên Định mệnh!
Vẫn những vần thơ không hề oán than, trách móc mà nhẹ nhàng tiễn đưa hay thề hẹn một hôm nào...
Thôi người ở lại soi gương
Tôi đi về phía con đường cỏ lau
Nợ người một khối u sầu
Tim người tôi trả ngày sau luân hồi
Mai kia rồi cũng xa người
Tôi về ngủ dưới khung trời cỏ hoa
Có nàng xõa tóc tiên nga
Quỳ hôn cát bụi khóc òa như mưa.
Cuối cùng thì mong manh thi sĩ vẫn không thoát được, hay nói đúng hơn không ai muốn thoát sự chở che của những bóng hồng. Còn mong ước ngày sau, khi đã thành cát bụi vẫn có người hoa nức nở gọi tên mình.
Người đẹp trong thơ Hoàng thi sĩ thường buồn và nỗi buồn nên thơ bao giờ cũng đẹp. Thơ của ông, nhất là những bài lục bát, thường cổ kính, xa xôi, nhiều từ cũ đã mòn nhưng khi bước vào thơ vẫn gợi, vẫn dẫn đường cho những cung bậc tình cảm da diết, ruột gan. Vượt lên hết thảy, đọng lại sau cùng là là triết lý, chiêm nghiệm sâu xa của một trí tuệ, tâm hồn cả nghĩ. Người đọc thấm thía hơn về phái đẹp cũng như cái đẹp mong manh. Bởi vậy thơ hay của ông nhiều khi khiến chúng ta mất ngủ.
P.X.D
(SDB16/03-15)
VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.
NGUYỄN VĂN HOA Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...
KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.
HƯƠNG LANGuy de Maupassant sinh ngày 5-8-1850 ở lâu đài xứ Normandie. Trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi mà nước Pháp vừa trải qua cuộc đụng đầu lịch sử giữa giai cấp tư sản hãy còn nhức nhối những vết thương thất bại của cuộc cách mạng năm 1848.
TRẦN ĐÌNH SỬTôi có duyên làm quen với Trần Hoàng Phố đã hai chục năm rồi, kể từ ngày vào dạy chuyên đề thi pháp học ở khoa Văn Đại học Sư phạm Huế đầu những năm 80. Hồi ấy anh đã là giảng viên nhưng theo dõi chuyên đề của tổi rất đều, tôi biết anh rất quan tâm cái mới. Sau đó tôi lại tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ của anh, được biết thêm anh là một người đọc rộng, uyên bác.
TRẦN THUỲ MAI(Đọc tập thơ "Quê quán tôi xưa" của Trần Hoàng Phố, NXB Thuận Hoá - Huế 2002)
NGUYỄN KHẮC PHÊNhà văn Nguyễn Quang Hà, trong lời bạt cuốn tiểu thuyết mượn câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Cao Bá Quát (“Trường giang như kiếm lập thiên thanh”) làm nhan đề, đã xem đây là “những kỷ niệm đầy yêu thương suốt dọc đường chiến tranh” của mình.
VỌNG THẢO(Về tập sách "Vì người mà tôi làm như vậy" của Hà Khánh Linh – NXB Hội Nhà văn – 2002)
NGUYỄN THỊ GIANG CHIF.Kafka là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ XX, một hiện tượng văn học rất phức tạp, có ảnh hưởng rộng lớn đối với tiến trình phát triển của văn học thế giới, đặc biệt là ở phương Tây.
YÊN CHÂU(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp: “Những lo toan năm tháng đời thường Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”
VỌNG THẢO... " Đôi trai gái đến nhót từ trong thau ra mỗi người một con cá ngậm ngang mồm, trút bỏ áo quần, trần truồng dắt tay nhau xuống nước. Hai con cá ấy là lễ vật dâng Thần Đầm. Chúng sẽ chứng kiến cái giờ phút linh thiêng hòa nhập làm một của đôi vợ chồng mới cưới, ngay trong lòng nước... Cuộc giao phối xong, đôi trai gái mới được há miệng. Hai chú cá liền bơi đi...".
VŨ NGỌC KHÁNH.(Đọc sách Phan Bội Châu- Toàn tập do Chương Thâu sưu tầm, biên soạn. Nhà xuất bản Thuận Hoá và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây- 2000)
VỌNG THẢO(Đọc “Quỷ trong trăng’ của Trần Thuỳ Mai)Đối với người cầm bút, trong những ý niệm thuần khiết nhất của trí tưởng tượng, mỗi người đều có những nhận thức và ám ảnh khác nhau. Riêng Trần Thuỳ Mai, ý niệm thuần khiết trong trí tưởng tượng của chị là một bến bờ xa vắng, nơi ẩn chứa những hạn cuộc huyễn hoặc và khát khao tận cùng trước giả, thật cuộc đời. Đó cũng là điều chị đã gửi gắm trong tập truyện mới: “Quỷ trong trăng” (NXB Trẻ - 2001), tác phẩm văn xuôi được giải tặng thưởng hàng năm của Liên hiệp Hội VHNT Thừa Thiên Huế.
NGUYỄN THỊ LÊ DUNGBao đời nay, thơ vẫn là một hằng số bí ẩn bảo lưu chất trẻ thơ trong tâm hồn con người. Nó gắn với đời sống tâm linh mà tâm linh thì không hề có tuổi, do vậy, nên dù ở chu kì sinh học nào, người ta cũng sống với thế giới thi ca bằng trái tim không đổi màu.
TẠ VĂN SỸĐọc tập thơ CÁT MẶN của LÊ KHÁNH MAI, NXB Hội nhà văn - Hà Nội 2001
LÊ THỊ MỸ ÝĐọc tập truyện ngắn "NGƯỜI ƠI" - Lê Thị Hoài - NXB Thuận Hoá 2001
HỒNG DIỆUVâng. Thơ của nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) viết ở Huế, trong đó có thơ viết về Huế và thơ viết về những nơi khác.
HÀ VĂN LƯỠNGBài viết này như là một nén nhang tưởng niệm nhà văn Aitmatov vừa qua đời ngày 11-6-2008)
UYÊN CHÂU(Nhân đọc “Mùa lá chín” của Hồ Đắc Thiếu Anh)Những ai từng tha phương cầu thực chắc chắn sẽ thông cảm với nỗi nhớ quê hương của Hồ Đắc Thiếu Anh. Hình như nỗi nhớ ấy lúc nào cũng canh cánh bên lòng, không dứt ra được. Dẫu là một làn gió mỏng lướt qua cũng đủ rung lên sợi tơ lòng: Nghe hương gió thổi ngoài thềm / Trái tim rớm lệ trở mình nhói đau (Đêm nghiêng).
LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.