Mỹ nhân trong thơ Hoàng Phủ

10:03 07/04/2015

PHẠM XUÂN DŨNG

Tôi và nhiều bạn bè sinh viên còn nhớ nguyên vẹn cảm giác lần đầu nghe bài thơ “Đêm qua” của nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đêm cư xá Huế lạnh và buồn đến nao lòng tê tái.

Ảnh: internet

Từ bấy đến nay dễ đã hơn một phần tư thế kỷ. Thời gian đủ để cho nhiều người đã đổi thay yêu ghét. Riêng tôi, vào những lúc bằng an và cả những khi lòng ngổn ngang trăm mối, vẫn nhớ đến những câu thơ xa xăm sương khói như ở một nơi chốn nào vọng lại mà gần gụi lắm, tri âm lắm với những vui buồn bắt đầu từ một bóng dáng người đẹp ở rừng Trường Sơn năm ấy.

Thôi em cảm tạ bàn tay
Anh so đời với tháng ngày trống không
Đêm qua trời đất mông lung
Có con chim nhạn bềnh bồng trong sương


Cứ điệp khúc “thôi em...” cứ luyến láy như một tiếng thở dài tiếc nuối cho những tháng ngày đã qua và những gì tốt đẹp mà thời gian cứ lặng lẽ vô tình bôi xóa. Từ cảm tạ với những vật hữu hình cụ thể như bàn tay con gái, bài thơ như một quán tính mộng du thi sĩ cuốn ta đi theo những liên tưởng trừu tượng, siêu hình hơn vào cõi mê buồn:

Thôi em cảm tạ chờ mong
Ngày anh đi hái phù dung chưa về
Đêm qua hương đã tàn mê
Mày ai còn dấu trăng thề như in

 
Thôi em cảm tạ ngày xanh
Trái cây chín đỏ trên cành mộng mơ
Đêm qua đứng ngóng bơ thờ
Mưa thời gian đã giăng mờ bên sông


Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, ở những bài để lại nhiều dư âm dư vị bao giờ cũng xa xôi sương khói, bảng lảng u huyền như ở một ngôi đền cổ u tịch bên rừng hoang sông vắng. Người đẹp hiện ra nửa thực nửa hư trong khói sương huyền thoại như có như không. Hoàng Phủ có lần nhận xét rằng nhạc Trịnh khi nói những điều buồn bã, cay đắng về thân phận con người thường gởi gắm vào một nhan sắc nào đó để bài hát bớt xót xa. Thơ Hoàng cũng vậy, những suy tư, triết lý đượm buồn cũng vịn vào một người con gái. Cái đẹp hiện ra như một sự an ủi tâm hồn, lại đôi khi như một phép màu cứu rỗi tâm linh. Mặc dù nếu đọc kỹ thơ Hoàng, nhiều lúc thấy bóng dáng người đẹp chỉ càng tăng thêm nỗi cô đơn thi sĩ. Dường như đó cũng là nghịch lý cuộc đời hay nghịch lý thi ca!

Thôi em cảm tạ con người
Đã thương đã ghét giữa đời vắng không
Đêm qua rơi xuống cội lòng
Vàng im ngọn lá ngô đồng thiên thu

 
Bây giờ đã hết trò chơi
Đã tàn cuộc rượu cho người ra đi
Đêm qua chẳng biết làm gì
Muốn tìm về gã Trương Chi nghe đàn


Đó là những cảnh tượng tâm trạng chứ không phải là những cảnh tượng cuộc đời. Chỉ là mới đêm qua thôi mà nghe đã xa xôi ký ức, dù có bóng hình chín vía hiện ra vẫn thấy mênh mang, quạnh quẽ nỗi buồn, một nỗi buồn sâu xa, thánh thiện tạo nên giống nòi thi sĩ. Giọng thơ đều đặn vang lên như một hồi chuông nguyện cầu cho ai đó trong đời hay vỗ về cho chính bản thân với nỗi buồn đơn chiếc.

Thôi em thăm thẳm Trường sơn
Ngày xưa anh vẫn cô đơn đã thường
Đêm qua nằm nhớ mưa nguồn
Con chim tắt lửa kêu buồn mấy năm

 
Thôi em ròng rã suối khe
Anh về mắc võng nằm mê đợi người
Hôm qua có lũ đười ươi
Lang thang rũ một trận cười trong mây.


Điệu buồn rừng cũ vẫn hiện ra như một ám ảnh khôn nguôi mà lắm khi dù người mộng về bên cũng đành thở dài bất lực, để cho người thơ nằm đợi chiêm bao với hy vọng mong manh được ngược về quá vãng. Chân dung nhà thơ là chân dung tâm trạng được phủ lên một màn khói sương xa vắng của đền đài, mộng mị xa xôi.

Bài thơ “Địa chỉ buồn” cũng là một lời tự bạch riêng tư:

Nhà tôi ở phố Đạm Tiên
Dưới sông nước chảy bên trên có cầu
Có mùi hương cỏ đêm sâu
Có loài hoa biết nuôi sầu tháng năm.


Đây là cảnh tượng có thực của một địa chỉ cụ thể, nơi mà nhà thơ từng sinh sống nhiều năm. Nhưng địa chỉ thì độc đáo: địa chỉ buồn như chính tên gọi của bài thơ. “Nhà tôi ở phố Đạm Tiên”! Cái thực đã được ảo hóa, buồn hóa, chọn tên gọi nhà mình như muốn vận vào đời, như đã vận vào đời tài hoa đa đoan, trắc trở. Người đẹp Đạm Tiên xuất hiện như một tin buồn linh nghiệm được báo trước, như một lựa chọn không thể chối từ. Nhưng chớ vội nghĩ chuyến viếng thăm định mệnh của Đạm Tiên là chỉ là đau khổ. Vì đó không chỉ là cay đắng mà còn là sứ mệnh, là vinh quang của loài thi sĩ. Thiên sứ buồn và gánh vác nỗi buồn hành hương cho trọn kiếp!

Tôi về ngủ dưới vầng trăng
Có em từ chốn vĩnh hằng nhìn tôi
Tình xa, xa mãi trong đời
Tóc xanh tiên nữ rối bời trên tay

 
Tôi còn ngọn nến hao gầy
Chảy như nước mắt từ ngày sơ sinh
Tôi xin em chút lòng thành
Cài lên một phiến u tình làm hoa.


Rồi cũng phải nương tựa vào cái đẹp mà buồn, mà sống, dẫu biết trăm nghìn lần chưa hết phù du. Nhưng có hề chi, một chút lòng thành thôi cũng đã thành vương miện, cũng đã siêu thoát cho biết mấy linh hồn.

Những chiều Bến Ngự giăng mưa
Hình như ai đó mơ hồ gọi tôi
Tôi ra mở cửa đón người
Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang.


Thơ như vậy đã chạm đến những miền sâu thẳm của nỗi lòng và như một phép gọi hồn nhiệm màu linh ứng. Thơ của tâm linh! Nhà thơ đã vẽ nên một chân mày sắc đẹp tri âm run rẩy nỗi buồn.

Một hạnh phúc lớn của nghệ sĩ là được hóa thân. Sau khi đã phiêu bồng, mộng mị theo gió núi, mây ngàn, người đẹp muôn kiếp trước, thi nhân lại muốn “Về chơi với cỏ”:

Thưa rằng người đã quên tôi
Tôi về chơi với ngọn đồi cỏ may
Một đường hang, một dấu giày
Một người ngồi một tháng ngày bóng nghiêng


Cảm ơn người trái đào tiên
Tôi về lãng đãng nơi miền cỏ gai
Cỏ gai hoa thắm mặt người
Trinh nữ ơi, trinh nữ ơi - tôi buồn.


Người thơ vẫn không nguôi khao khát hóa thân, phân thân nên dù đã dặn lòng vô tư về chơi với cỏ vẫn cứ cố tình lạc vào cổ tích để thêm một lần được sống vẹn nguyên ý nghĩa con người bằng chính bản lai diện mục. Và người đẹp vẫn hiện ra trong khói hương huyền thoại, trong sắc màu cỏ hoa trinh nữ như một nhiệm màu không thể chia ly. Còn nỗi buồn đã mang tên Định mệnh!

Vẫn những vần thơ không hề oán than, trách móc mà nhẹ nhàng tiễn đưa hay thề hẹn một hôm nào...

Thôi người ở lại soi gương
Tôi đi về phía con đường cỏ lau
Nợ người một khối u sầu
Tim người tôi trả ngày sau luân hồi

 
Mai kia rồi cũng xa người
Tôi về ngủ dưới khung trời cỏ hoa
Có nàng xõa tóc tiên nga
Quỳ hôn cát bụi khóc òa như mưa.


Cuối cùng thì mong manh thi sĩ vẫn không thoát được, hay nói đúng hơn không ai muốn thoát sự chở che của những bóng hồng. Còn mong ước ngày sau, khi đã thành cát bụi vẫn có người hoa nức nở gọi tên mình.

Người đẹp trong thơ Hoàng thi sĩ thường buồn và nỗi buồn nên thơ bao giờ cũng đẹp. Thơ của ông, nhất là những bài lục bát, thường cổ kính, xa xôi, nhiều từ cũ đã mòn nhưng khi bước vào thơ vẫn gợi, vẫn dẫn đường cho những cung bậc tình cảm da diết, ruột gan. Vượt lên hết thảy, đọng lại sau cùng là là triết lý, chiêm nghiệm sâu xa của một trí tuệ, tâm hồn cả nghĩ. Người đọc thấm thía hơn về phái đẹp cũng như cái đẹp mong manh. Bởi vậy thơ hay của ông nhiều khi khiến chúng ta mất ngủ.

P.X.D  
(SDB16/03-15)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".