Nguyễn Quang Thiều tâm sự rằng, suốt cả tuổi thơ của những đứa trẻ thôn quê như ông, có một ngọn gió không bao giờ ngưng thổi, đó là ngọn gió của… đói rét.
Những đứa trẻ đó phải ăn đủ thứ tìm thấy để lớn lên, như rau dại, quả rừng, côn trùng… 60 năm qua đi, bây giờ Nguyễn Quang Thiều đã trở thành “một ông già”, nhưng đứa trẻ của làng Chùa ngày ấy, vẫn còn in đậm trong mình ký ức về góc bếp của bà, của mẹ với những món ăn dân dã nhưng ngon đứt lưỡi, những sáng mùa đông sương phủ trắng cả cánh đồng rau khúc, những chiều hè ngụp lặn mò hến, cười vang cả một khúc sông…
…Và rồi, một phần của những góc bếp bình yên ấy đã được Nguyễn Quang Thiều tập hợp thành một cuốn sách nhỏ có tên gọi “Mùi của ký ức” với 18 câu chuyện là những món ăn của người làng Chùa quê ông - một ngôi làng cổ ven bờ sông Đáy.
Gian bếp bình yên của bà, của mẹ
Cầm cuốn sách của Nguyễn Quang Thiều trên tay, lật dở vài trang lướt nhìn, tôi buột miệng hỏi: “Có phải anh viết về ẩm thực không?”. Nguyễn Quang Thiều lắc đầu phủ nhận... Ông viết sách với lý do duy nhất là vì nhớ bà, nhớ mẹ, nhớ ngôi làng xưa, những món ăn đã nuôi ông khôn lớn. Để bây giờ, khi đã có chút danh, đến những nơi xa xôi, gặp vô vàn những bữa tiệc thịnh soạn, ông vẫn chưa nguôi nhung nhớ về ngôi làng, nơi chiều chiều, trong gian bếp, bà lẫn mẹ ông vẫn đêm ngày tần tảo, chắt chiu để cho mâm cơm được đủ đầy.
Tôi - một người đọc. Dẫu đã được tác giả “định hướng” nhưng tôi vẫn nhất định soi chiếu “Mùi của ký ức” như một cuốn sách về ẩm thực. Một cuốn sách viết về những món ăn đặc biệt nhất mà tôi đã từng đọc.
Chẳng phải điều gì lạ lẫm đâu mà đó là sự thật, rằng bên trong những ngôi làng cổ luôn ẩn chứa rất nhiều bí mật, những bí quyết đời này rỉ tai đời sau, các thế hệ cứ nối tiếp nhau mà trân trọng gìn giữ, trong đó cả công thức nấu những món ăn, mà chỉ cần bước qua cổng làng thôi, là vĩnh viễn chẳng bao giờ gặp lại ở trên đời này. Làng Chùa cũng không phải là ngoại lệ.
Làng Chùa của Nguyễn Quang Thiều nằm kề bên dòng sông Đáy có món gỏi cua, người làng gọi là gỏi “Lý Trưởng” - nghĩa là món gỏi đứng đầu, quyền uy nhất trong tất cả những món gỏi còn lại như gỏi cá mè, cá diếc, tép đỏ… Tất nhiên, theo lời kể của tác giả thì để làm thành công món gỏi, để thưởng thức món gỏi thì ngay từ khi chuẩn bị nguyên liệu đã là một nghi thức. Những lá, những quả vốn là thứ có sẵn trong vườn nhà từ khế chua, lá nghệ, củ chuối, vừng đen… chẳng thể thiếu bất cứ thứ gì. Công thức món gỏi quyền uy này nhiều người đã học, đã thử nhưng khi mang nó đi khỏi làng thì đều bất thành, vì lẽ không thể làm tròn trịa được một hương vị khi ăn “thơm từ trong miệng mình thơm ra”.
Nguyễn Quang Thiều bầy ra trước mắt người đọc vô số những món ăn dân dã nhưng, để tìm được đủ những rau, gia vị mà bắt chước, mà học lỏm thì quả là một lời thách đố. Bây giờ, chẳng phải chợ nào cũng bán cá mè ta, lại tìm đâu ra củ chuối để mà làm món cá om, muốn kho cá mà cũng chẳng thể tìm được một bụi cúc tần, dù xưa mọc đầy bờ dậu...
Sự vô cảm sẽ giết chết những gì thuộc về vẻ đẹp
“Mùi của ký ức” gợi cho người đọc nhiều liên tưởng, đôi khi là cả sự ám ảnh. Tôi cứ hình dung về một cánh đồng rau khúc với mơ hồ sương đọng, chờ đông sang bừng nở. Hình dung về một đứa trẻ lên 5 lũn cũn theo bà ra đồng hái rau rồi dưới cái lạnh lẽo của mùa đông miền Bắc, ngồi trong gian bếp ấm sực hít hà chiếc bánh với những hạt gạo nếp trắng tinh beo béo và thơm thơm.
Tôi một đứa trẻ lớn lên ở thành phố, chưa một lần biết mặt lá khúc, nhưng vẫn còn ký ức vẹn nguyên về những buổi chiều đông, cứ tầm giờ ấy, có ông già chở chõ bánh khúc đi ngang qua phố, thế nào bà ngoại tôi cũng vẫy lại, thế nào cũng mua cho tôi một chiếc bánh nhỏ chấm với vừng. Bây giờ, bà tôi đã già, thi thoảng mua biếu lại bà chiếc bánh của ký ức xưa ấy, lần nào bà tôi ăn cũng lắc đầu, toàn lá su hào, làm gì còn lá khúc!
Những cánh đồng ngoại thành Hà Nội đã mất đi, những ngọn rau dại như lá khúc cũng chẳng còn vì thuốc bảo vệ thực vật. Con cua, con cá, con hến… cũng cùng chung số phận. Bây giờ chỉ còn toàn nhà là nhà, những con đường vài làn xe chạy, tiện nghi nhưng lạnh lùng. Phải vậy chăng nên nhiều người sinh ra hoài cổ.
Có một dạo, ở Hà Nội rộ lên trào lưu trở về quá khứ. Người ta thi nhau đến những quán ăn được bài trí theo phong cách bao cấp, bát đĩa ở đó được đập mẻ có chủ ý, cố để cũ kỹ. Tất cả những món ăn thuở Hà Nội còn bươn chải nghèo đói đó được tính với giá cắt cổ. Tôi dăm lần ăn ở những quán ăn đó và dĩ nhiên hiển hiện một chữ… tệ. Có phải người ta trả tiền để tìm lại ký ức hay không? Tôi đem thắc mắc hỏi Nguyễn Quang Thiều, ông giải thích, có những món ăn xưa ngày nay người ta vẫn nấu nhưng chỉ nấu với cách làm toán 1 + 1 = 2.
Nghĩa là họ chỉ thực hiện nó dựa trên một công thức thô thiển mà không hề mang trong đó cảm xúc. Chính vậy mà cùng một món ăn thì người nấu ngon và người nấu không ngon. Sự vô cảm sẽ giết chết tất cả những cái gì thuộc về vẻ đẹp. Bởi lẽ, để tìm lại ký ức và để cho ký ức đó sống lại thì con đường duy nhất chỉ có thể là… cảm xúc.
Rồi Nguyễn Quang Thiều lạc quan: “Những gì đã thuộc về “cái đẹp” thì không bao giờ mất đi cũng như những món ăn ngon sẽ mãi là món ăn ngon. Nhưng “cái đẹp” nói chung và những món ăn ngon nói riêng tồn tại hay biến mất lại phụ thuộc vào việc con người còn biết hưởng thụ nó nữa hay không. Thực tế trong cuộc sống có không ít những điều đẹp đẽ đã và đang biến mất. Cuộc sống gấp gáp và thực dụng đã giết chết quá nhiều những vẻ đẹp ấy.
Nhưng rồi, những món ăn dân dã của bà, của mẹ vẫn được nấu trong ngôi nhà của chúng tôi. Bởi đó thực sự là những món ăn ngon và nó chứa đựng trong đó cả một lịch sử và ký ức ấm áp và xúc động. Nó làm cho ta được thưởng thức hương vị của ẩm thực và làm cho ta được sống trong cảm xúc đẹp và ý nghĩa. Khi tôi nấu một món ăn dân dã xưa là lúc những điều thiêng liêng và ấm áp lại trở về với tôi một lần nữa. Và như vậy, tôi đã được sống…”.
Theo Quỳnh Vân - ANTĐ
1. Quan sát tiểu thuyết Việt Nam đương đại, chúng ta sẽ nhận thấy có một số triều đại, nhân vật được các nhà văn tập trung khai khác với mật độ khá dày như nhà Trần với Trần Khánh Dư, Trần Hưng Đạo (xuất hiện trong Sương mù tháng giêng của Uông Triều, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt Sĩ, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh…), nhà Lê với Nguyễn Trãi (xuất hiện trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Trãi của Bùi Anh Tấn…), nhà Tây Sơn với Nguyễn Huệ (xuất hiện trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh…).
Có thể coi “Dế mèn phiêu lưu ký” là một trong những tác phẩm đặc biệt nhất của văn học Việt Nam, khi tính đến nay đã có rất nhiều ấn bản đặc biệt của bộ sách này ra đời. Mới đây, độc giả yêu mến “dế mèn” lại một lần nữa được thưởng thức cuộc phiêu lưu của chú dế lừng danh qua ấn phẩm mới với những bức tranh minh họa hoàn toàn khác biệt của nữ họa sĩ trẻ Đậu Đũa.
Ở vào tuổi 99, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư vẫn tỏ ra minh mẫn và tinh anh khi giao lưu cùng bạn đọc nhân dịp tái bản bộ tiểu thuyết lịch sử Loạn 12 sứ quân do NXB Văn hóa - Văn nghệ tổ chức vào sáng ngày 20-9, tại Đường sách TPHCM.
Khi nghe tin nhà văn Vũ Tú Nam đã trút hơi thở cuối cùng, lòng tôi dâng lên một nỗi buồn. Nhưng trong nỗi buồn ấy là những ký ức đẹp và ấm áp về ông. Hình ảnh ông hiện lên và ngự trị trên hình ảnh ấy là ánh mắt và nụ cười hiền hậu.
"Túc tắc sống/ Ngày nối ngày/ Túc tắc say từng phút giây/ Tới khi nào buông tay bút/ Trời xanh ngút túc tắc bay..." - là những dòng thơ của con trai nhà văn Vũ Tú Nam mới đăng để tiễn biệt cha về cõi vĩnh hằng.
Sớm thứ hai ngày 7-9, Trung tướng Triệu Xuân Hòa (Ba Hòa), nguyên Tư lệnh Quân khu 7, gọi cho tôi: “Anh nghe tin buồn chưa, bác Văn Lê đi đêm qua rồi”. Tôi không tin vào tai mình, hỏi lại: “Văn Lê nào, có phải nhà thơ Văn Lê?”. Giọng Ba Hòa buồn rười rượi: “Mới sớm qua, bác ấy còn đi qua ngõ nhà chúng tôi. Bác ấy vẫn cười vui mà?”.
“Mở mắt ngày đã trôi” là tập truyện mới của tác giả Hoàng Thanh Hương nằm trong đề án Bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam thực hiện năm 2020.
Kỷ niệm 75 năm Quốc khánh 2.9, NXB Kim Đồng giới thiệu những cuốn sách về quê hương đất nước, lịch sử cách mạng, về Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, nhằm góp phần bồi đắp trong thế hệ trẻ lòng yêu nước thương nòi, tinh thần tự hào, hiểu sâu sắc hơn vị trí, uy tín của Việt Nam trong thế giới hiện đại là khởi nguồn từ ngày 2.9.1945.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950, là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam đương đại, với những sáng tác truyện ngắn đặc sắc, mang hơi hướng huyền thoại, cổ tích, hoặc lịch sử. Với Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Đông A và NXB Văn học), bạn đọc sẽ được gặp lại một cuốn sách vừa quen vừa lạ.
Được xem là tác phẩm đỉnh cao trong cuộc đời sáng tác ngắn ngủi của “Ông vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng, tiểu thuyết Số đỏ đã từng quen thuộc với nhiều thế hệ độc giả Việt Nam. Mới đây, tác phẩm vừa được trở lại với một diện mạo hoàn toàn mới do Công ty Sách Đông A và NXB Văn học ấn hành.
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc khi nghiên cứu bản sắc văn hoá của người Việt Nam đã nêu ra bốn yếu tố: Tổ quốc, gia đình, thân phận và diện mạo. Theo tôi trong bốn yếu tố ấy thì quan trọng nhất, khi hai yếu tố kia đã có rồi, là thân phận và diện mạo, vì hai yếu tố này mới xác nhận vị thế một con người trong xã hội.
Tôi xúc động rưng rưng khi đọc những trang đầu cuốn sách mới của nhà văn Ngô Thảo với đầu đề “Nghiêng trong bóng chiều” (Nxb. Quân đội nhân dân, 2020), mừng ông tròn tuổi 80. Ông mở đầu: Khi trò chuyện với người già, lớp trẻ sợ nhất là các vị ôn nghèo, kể khổ về thời bao cấp.
Trở về với miền Nam để trả món nợ ân tình, đó chính là khát vọng để Nguyễn Thi sáng tạo nên những tác phẩm cố gắng khái quát bức tranh rộng lớn của một thời cả dân tộc lên đường đánh Mĩ.
Bao năm qua, những sáng tác về Hà Nội đều đặn ra mắt công chúng. Không phải ngẫu nhiên nhiều tác giả luôn ưu ái dành một góc văn chương của mình để viết về Hà Nội, bởi tình yêu, sự mến thương và cảm giác gắn bó với mảnh đất Thăng Long xưa.
Tiểu thuyết “Những ngày cách ly”, tác giả Bùi Quang Thắng, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh dài 160 trang được viết trong 12 ngày, đề tài liên quan đến dịch Covid-19. Đọc xong, điều đầu tiên, cũng đáng nể người viết, người biên tập, đây hẳn là cuộc chạy đua để cuốn sách đến được với bạn đọc trong thời gian nhanh nhất có thể.
Bộ sách đồ sộ với độ dày gần 5000 trang tập hợp 30 nhật ký của những người lính trong chiến tranh. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều gọi đây là bộ hồ sơ văn hóa Việt Nam. Còn Trung tướng, Anh hùng LLVTND Đoàn Sinh Hưởng thì coi bộ sách là dấu ấn tâm hồn của các anh hùng liệt sĩ.
5 năm sau khi nữ tác giả Svetlane Alexievich nhận giải Nobel văn học cho những cuốn sách thuộc thể loại phi hư cấu, Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam, bằng sự nỗ lực lớn đã tiếp tục giới thiệu các tác phẩm của bà. Hai cuốn sách được dịch và giới thiệu mới là “Những nhân chứng cuối cùng” và “Những cậu bé kẽm” do dịch giả Phan Xuân Loan thực hiện.
Với mong muốn khơi gợi niềm thích thú và sự tò mò của độc giả nhỏ tuổi đến với sách giáo dục truyền thống, Nhà xuất bản Kim Đồng vừa giới thiệu câu chuyện về tấm gương anh hùng của chị Võ Thị Sáu và anh Lý Tự Trọng với phần lời kể được lồng ghép cùng những bức tranh tả thực hoành tráng.
Trong lòng tôi, nhà văn Phạm Tường Hạnh là người anh giàu tình nghĩa, sống sôi động, bộc trực, thẳng thắn, nhưng với đồng nghiệp thì luôn biết lắng nghe và tôn trọng. Hôm nay, kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Phạm Tường Hạnh, xin có đôi dòng...
Đến nay, nhà văn Ma Văn Kháng đã cho ra đời hơn 20 tiểu thuyết, gần 200 truyện ngắn, chủ yếu lấy cảm hứng từ sử thi và thế sự đời tư, đề cập phần nhiều đến cuộc sống và con người vùng Tây Bắc.