Mưa xanh

14:29 27/08/2021

TRẦN HUIỀN ÂN

Năm tôi mười tuổi, buổi tối ngày giỗ Dì Sơ, mẹ tôi với nét mặt trang nghiêm mà xúc động nói cho tôi biết Dì Sơ chính là người sinh ra tôi.

Minh họa: Phạm Đại

Ba tôi mất khi tôi mới là một thai nhi sáu tháng. Tôi ra đời được mười tháng thì má tôi mất. Trước khi lên bàn mổ hai ngày, biết mình khó vượt khỏi tay tử thần, má tôi gởi gắm tôi cho người chị cả, và không muốn con mình sớm tủi phận mồ côi, xin anh chị nhận làm con ruột, đợi đến mười tuổi hãy cho biết. Mẹ tôi kể chuyện nhẹ nhàng, chậm rãi, nói vắn tắt nhưng đầy đủ. Nói xong, mẹ tôi mới ôm tôi òa khóc.

Đêm ấy, nằm với mẹ tôi, lần đầu tiên trong cuộc đời tôi biết im lặng thao thức. Mẹ tôi cũng im lặng thao thức.

Thật tự nhiên, một tình cảm mới, sâu đậm, mạnh mẽ phát khởi trong lòng, tôi luôn nghĩ đến ba má tôi, dù đối với cha mẹ tôi vẫn nghĩ là cha mẹ ruột. Tôi hỏi thêm mẹ tôi những chi tiết để đêm ngày cố tưởng tượng rõ ràng hơn hình ảnh má tôi. Qua những tấm ảnh, tôi thấy má tôi trăm lần, ngàn lần đáng yêu thương hơn, đẹp đẽ hơn. Tôi hiểu tại sao từ lâu mẹ tôi đã dành riêng những hình ảnh của "Dì Sơ” vào một tập album. Tôi nhớ lại mỗi lần nói với tôi hai tiếng "Dì Sơ” trên gương mặt mẹ tôi nét đau đớn cứ còn nặng trĩu.

Năm tôi mười lăm tuổi, cũng theo lời dặn của má tôi, mẹ tôi trao cho tôi một phong bì dày dán kín. Tôi bóc ra, một tập sổ, lật vội. Trang đầu dán hai tấm ảnh, một tấm má tôi bế tôi và một tấm chụp riêng tôi, bên dưới có ghi: "Tấm ảnh đầu đời của con". Tôi lặng ngắm hồi lâu đứa bé tròn trịa, bụ bẫm, mắt mở lớn, miệng bặm lại rồi lật qua trang thứ hai. Nét chữ đàn ông, chép một câu nói về hoa súng, ba chữ Đinh Gia Trinh đặt trong ngoặc đơn. Trang cuối cùng má tôi viết:

"Con gái yêu quý của má! Nếu má bình phục sau lần giải phẫu này, mai sau hết chiến tranh má sẽ đưa con về Đất Sở". Nếu má không qua khỏi, má mong rằng mai sau con cũng sẽ có dịp về Đất Sở".

Một phần tập sổ còn giấy trắng.

Nhiều lần ngồi bên đèn khuya, tôi lật đi lật lại từng trang sổ. Đó là một tập tạp ký, má tôi chép có phần tùy hứng, không thường xuyên, những sự việc, những cảm nghĩ. Tỉ mỉ nhất là phần sau cùng, những ngày bé bỏng của tôi, má tôi từng vui buồn, lo lắng như thế nào. Ở phần trước, những đoạn xen vào nét chữ đàn ông, chắp nối lại có thể hiểu như hai người đang thương xác với nhau về những "huyền thoại quê hương" với điều được gọi là "Định mệnh của những người con gái Đất Sở".

Tự mình không sắp xếp được thành hệ thống, không giải thích nổi, tôi đem các chỗ phân vân hỏi mẹ tôi.

- Đất Sở ở nơi nào mẹ?

- Là quê ngoại con đó.

- Hoán là ai vậy mẹ?

- Một người cùng quê, bạn của má con.

- Vua Hoa Anh đóng đô ở Đất Sở hở mẹ?

- Con nói ông vua nào vậy? Mẹ không biết.

- Mẹ có biết chuyện ông Tác, ông Lộ, những người làm ra bụi đỏ, mưa xanh không?

- Mẹ không biết. Con tìm ở đâu ra chuyện ấy?

- Trong tập sổ của má con. Những ghi chép loáng thoáng, rời rạc giữa má con với ông Hoán. À... Mẹ ơi! Ngày trước ông Nhã cũng yêu mẹ, phải không?

- Ừ... Hồi mẹ còn con gái. Đó là chuyện cũ. Cũng trong sổ của má con sao?

- Ngày đó, cha con làm gì và ông Nhã làm gì, mẹ?

- Cha con là một Tiểu đoàn trưởng lừng danh.

Tôi cười trêu chọc:

- Vậy là giữa hai chàng, nàng đã chọn võ quan súng ngắn.

Mẹ tôi cũng cười:

- Không phải mẹ quyết định mà ông ngoại con. Ông ngoại chọn cha con vì hợp tính: nhanh nhẹn, quyết đoán. Không có con trai, ông ngoại cho rằng người như thế mới thay ông cai quản được cả cơ ngơi Đất Sở. Mẹ tôi trầm ngâm giây phút. Ông Nhã là một nhà giáo, tính tình đúng như tên cha mẹ đặt, luôn luôn khiêm tốn, nhã nhặn, nói một câu phải bảy lần uốn lưỡi. Thật tội nghiệp.

- Ông Hoán cũng là nhà giáo hở mẹ?

- Cậu ấy là nhà văn. Đó là nghiệp chớ không phải nghề.

Những lần trò chuyện với mẹ tôi như thế, không thỏa mãn được nỗi ám ảnh về quê nhà. Lại nhiều đêm, ngồi bên đèn khuya... Tôi vẫn lật tới, lật lui từng trang sổ, tìm tòi, nhưng chỉ có thể mường tượng một cách mơ hồ, chứ không định hình được điều gì. Tôi không dám hỏi cha tôi, cha tôi sẽ cho là nhiều sự, vớ vẩn. Nếu ba tôi còn, chắc ba tôi cũng không hiểu gì hơn. Chỉ có má tôi. Và một người nữa trong cuộc: ông Hoán.

Khoảng năm, sáu năm sau...

Một hôm cha tôi đưa về người khách lạ. Người ấy cười, biểu lộ tất cả xúc động trong lời chào mẹ tôi. Mẹ tôi hơi cau trán, một tích tắc suy nghĩ, rồi đôi mắt sáng lớn, kêu to:

- Cậu Hoán.

Bỗng, như đã quen thân, tôi vui vẻ cúi đầu:

- Thưa cậu.

***
Cậu Hoán đưa tôi về Đất Sở.

Cậu kể.

Ngày xưa, khi vua Lê Thánh Tôn nam tiến, thành Đồ Bàn bị thu phục rồi thì phương nam chia thành ba xứ. Quê ta ngày nay, lúc đó là xứ Hoa Anh. Trong những năm sinh viên, cậu và má cháu đã tìm được những chứng tích, những sử liệu minh thị rằng Đất Sở là kinh đô của xứ Hoa Anh. Dinh cơ của vua Hoa Anh, cậu và má cháu nghĩ, có thể hiểu ngay chính chỗ về sau là nhà ông ngoại cháu. Cháu xem, phong cảnh kỳ vĩ biết chừng nào, có đồi cây, hồ nước hữu tình, đó là sơn là thủy, là giáo là khiên, là nghiên là bút, là đế là trụ... một cuộc đất rất vượng theo cái nhìn của các thầy địa lý.

Phía tây Hoa Anh là xứ Nam Bàn, cùng với Hoa Anh giao hảo thâm tình. Vua Nam Bàn có hai kiện tướng, người cai quản Miền Hỏa ở phía bắc Sông Lớn, có con trai tên Tác giỏi về nội trị, người cai quản Miền Thủy ở phía nam sông Lớn, có con trai tên là Lộ giỏi về văn chương. Tuy còn trẻ, Tác và Lộ cùng được vua Nam Bàn tin yêu, có ý định sau này sẽ cho kế nghiệp cha. Mỗi lần có sử bộ sang thăm viếng Hoa Anh cả hai đều được đi theo, còn được lưu lại nhiều ngày để học hỏi. Lộ thường giúp việc trong dinh, thêm biết tài thổi sáo tuyệt vời nên có nhiều dịp gần gũi cô Sim là cháu ngoại vua Hoa Anh. Trai tài gái sắc, lạ gì họ chẳng yêu nhau, Tác thường giúp việc bên ngoài, khai khẩn, săn bắn. Dù vậy Tác cũng đôi khi gặp Sim. Tất nhiên, Tác không thể không yêu một người như Sim.

Hai chàng cùng thưa với vua Nam Bàn. Vua không biết phải nói lời cầu hôn cho ai nên trình bày sự thật, xin tùy vua Hoa Anh kén chọn. Đối với vua Nam Bàn thì Tác hay Lộ làm cháu rễ vua Hoa Anh đều đem lại cho ông sự thông hiểu như nhau. Vua Hoa Anh thì nhìn vào sự nghiệp mở mang xứ sở mà quyết định, ông đã chọn Tác. Sim đành nuốt lệ vâng lời ông ngoại, bội tình với Lộ. Lộ cũng gắng gượng làm vui vì Tác là bạn, Lộ nghĩ: Tác giàu có hơn, Sim sẽ sung sướng hơn.

Sau hôn lễ, Tác ở lại Đất Sở, ngày ngày trông coi mọi công việc. Dưới sự điều khiển của Tác gò hoang lui dần cho đất trồng thêm bát ngát, rừng sim đã ngã xuống cho ngũ cốc mọc lên. Mỗi ngày hàng đoàn người ngựa cung tên giáo mác ra roi phi nước đại, chiều về chở đầy lâm sản. Mỗi ngày hàng trăm đôi trâu kéo cày, hàng trăm người xếp hàng vung cuốc. Mặt đất màu mỡ mở ra, bụi đỏ tung lên đầy trời, cảnh vật nhòa trong một màu đỏ sẫm.

Một ngày mùa hè, Lộ cùng sứ bộ trở lại Đất Sở, thấy Sim theo chồng ra đồng, chiếc áo phủ đầy bụi đỏ, khuôn mặt, bàn tay, bàn chân Sim trắng trẻo, nõn nà cũng vấy đầy bụi đỏ. Khuya hôm ấy, Lộ thức dậy, khi gà chưa gáy lần đầu, ra ngồi bên bờ hồ, đưa ống sáo lên thổi mãi, thổi hoài khúc tình ca trước đây Lộ thường thổi cho Sim nghe. Trời sáng lúc nào Lộ chẳng hay bởi ánh nắng không chói chang như mọi hôm. Những cơn mưa nhỏ lất phất liên tiếp nối nhau rắc những giọt xanh lên cảnh vật. Khi Sim ra đồng, mưa xanh tụ trên tóc làm tóc nàng xanh thêm, mưa xanh làm cho khuôn mặt, bàn tay, bàn chân nàng càng tăng vẻ ngọc ngà. Nàng đưa tay vuốt tóc, nghe một cảm giác nhẹ nhàng, dịu mát. Nàng bước đi, lắng hồn vào tiếng sáo lơ lửng, huyền ảo, chập chờn. Nhưng đến trưa thì bụi đỏ theo mỗi luống cày lại theo gió ùa lên, vây phủ bốn bề. Lộ vẫn ngồi bên bờ hồ, mải mê thổi sáo. Tiếng sáo bay bổng lưng trời, dìu dặt, réo rắt lại đưa mưa xuống. Những cơn mưa xanh lất phất buổi chiều trả lại nguyên màu cho cây cỏ, hút sạch bụi đỏ trên tóc, trên áo của Sim, lau sạch từ mười đầu ngón tay mềm mại đến hai gót chân thon nhỏ, nàng trở về dinh cơ, yêu kiều, tươi thắm như ban sáng ra đi.

Tiếng sáo của Lộ, suốt từ giữa khuya đến chiều sẫm, không còn đủ sức để vút cao, đã phải trầm xuống, la đà trải trên mặt nước. Tất cả hơi thở của sự sống một đời người, Lộ đã dồn hết vào các bản tình ca. Lộ không đứng dậy được, cũng không nghĩ đến việc phải đứng dậy. Đêm ấy, Lộ chết lạnh trong tư thế ngồi tựa vào cội cổ thụ, hai tay vẫn trân trọng nâng ống sáo đặt vào môi.

Từ đó, bụi đỏ, mưa xanh thành ra đặc điểm thời tiết của Đất Sở quê ta. Mùa hè nắng nóng, mỗi sáng mỗi chiều mưa xanh rắc nhẹ lên đất nước làm xinh đẹp con người, xinh đẹp hoa lá ruộng vườn, xóa đi dấu vết bụi đỏ của những trận gió ban trưa cuồn cuộn. Cũng từ đó, số phận của những người con gái Đất Sở được quy vào một điều gọi là định mệnh.

Quả như lời cậu Hoán, trưa hôm qua về đây tôi đã đi giữa màn bụi đỏ. Lời đồn đãi rằng khi gió cuốn lên hoa sim biến ra màu da cam, lá sim như nhúng nước phèn là nói quá, nhưng những luồng bụi đỏ nối nhau liên tiếp chạy dài là có thật. Những chiếc áo trắng của các bạn gái Đất Sở hầu hết không còn giữ được màu sắc ban đầu. Sáng nay, sau vài cơn mưa lất phất, màu tím của hoa, màu nhũ bạc của lá óng ánh nắng mai. Mưa xanh đúng ra phải gọi là mưa phấn, với những hạt li ti dày đặc.

Tôi nhớ lần hỏi về chuyện hôn nhân, mẹ tôi nói do ông ngoại quyết định. Như ngày xưa... Vua Hoa Anh đã gả nàng Sim cho Tác, dẫu Lộ yêu Sim hơn, yêu đến chết trong những lời sáo trúc tuyệt vời. Sim cũng yêu Lộ hơn trong dáng vẻ yêu kiều tươi thắm mỗi buổi chiều nàng trở về giữa bột mưa xanh. Giữa cha tôi và ông Nhã, biết đâu ban đầu mẹ tôi yêu ông Nhã hơn? Vị đại điền chủ ở Đất Sở thì cúi xuống sự nghiệp mình, nhìn xa mà chọn rể. Ông Nhã ngày nay có còn sống, ở đâu, ông có làm được một việc nào, dù nhỏ, để chứng tỏ với mẹ tôi rằng ông tha thiết yêu người, yêu hơn cả chính bản thân ông? Còn cuộc hôn nhân giữa ba tôi và má tôi? Trong quyển tạp ký của má tôi, từ trước tới sau không thấy nét chữ ba tôi. Phần sau cùng, má tôi chỉ viết về tôi, bú ra sao, ngủ thế nào, lúc nóng, lúc lạnh, biết lật, biết bò, khi biết nói gió, khi cười ra tiếng, rồi kiểu mũ, màu áo... Má tôi chỉ nhắc đến tôi. Mối liên hệ giữa má tôi và cậu Hoán là thế nào? Cho đến thời sinh viên, hai người còn gần gũi, bàn bạc bao điều. Ba tôi, một sĩ quan không quân, cậu Hoán là nhà văn. Có phải đây là trường hợp lặp lại, má tôi đi theo con đường của người chị cả, con đường nàng Sim trong cổ tích đã nêu gương? Căn cứ vào cách xưng hô thì má tôi với cậu Hoán đối với nhau bằng tình bạn, nhưng chỉ lấy cách xưng hô để nhận định thì chưa hẳn đúng. Hay hai người, do thụ động, mặc nhiên chấp nhận điều họ từng suy gẫm, ngụy biện với nhau, đặt cho một tên gọi đẹp đẽ là "Định mệnh của những người con Đất Sở"? Mặc nhiên chấp nhận như thế, cũng đáng thương, song thật đáng trách, nếu cậu Hoán yêu má tôi, mà khi má tôi đi lấy chồng cậu chỉ biết nhờ và, chờ đợi thời gian làm phai lạt lòng mình. Một người tôi kính yêu gần bằng má tôi, có chỗ còn hơn ba tôi, bao năm mong mỏi được gặp như một thần tượng, cũng tầm thường vậy sao?

Tôi nghĩ đến chuyện mình. Một người học sư phạm, một người học kiến trúc, tình cảm của tôi đối với mỗi người có chỗ hơn kém khác nhau. Tôi cũng hiểu được chỗ hơn kém khác nhau trong lòng mỗi người đối với tôi. Giả sử bây giờ cả hai cùng đến thì cha tôi sẽ quyết định thế nào? Liệu tôi, và cả mẹ tôi nữa, có dám nói khác ý con người nóng như lửa và quyết đoán ấy không? Tôi đã có ý định trách ông Nhã, cậu Hoán. Còn tôi? Sinh ra ở nơi xa, lớn lên, sau chiến tranh mới tìm về quê mẹ, tôi có dám tự mình chọn lựa cho đời mình, thoát ra khỏi cái huyền thoại Định Mệnh cũ kỹ đó không?

Cơn mưa buổi chiểu bắt đầu rơi rắc. Nhìn xuống mặt hồ, tôi chợt thấy một đóa hoa súng lẻ loi. Mưa nhẹ quá, không làm mặt hồ xao động, đóa hoa súng lặng lẽ đứng yên. Tôi nhẩm lại câu văn của Đinh Gia Trinh, cậu Hoán chép nơi đầu tập vở của má tôi, thật đúng với cảnh này:

"Chẳng bao giờ nó nở nhiều, cả một dải hồ rộng mênh mông có một mình bông hoa cô lập. Nó không hẹn ngày nở để làm tưng bừng một góc tạo hóa... Nở êm như ru, không yến oanh, không ong bướm, bao giờ cũng ưa đơn chiếc...".

T.H.A
(TCSH49/05&6-1992)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ HỮU KHOADưới gốc cây Sau Sau, thứ cây có thân gỗ nhưng muốn mang đốt cũng không cháy, dùng làm gỗ thì nhanh mục nên mới được sống tươi tốt ở vùng rừng thường xuyên được dân sơn tràng lui tới. Dũng trong thế ngồi co quắp, hai bàn tay giấu dưới vạt áo mưa để vừa tự sưởi ấm cho cơ thể vừa giảm tiết diện để tránh những hạt mưa lạnh buốt lọt qua tán lá rậm rạp, những hạt mưa mùa không biết mệt mỏi cứ rơi và rơi…

  • NGUYỄN VIỆT HÀCó một ngày rất âu lo đã đến với thằng béo. Bụng bồn chồn tưng tức, giống như đang ngồi giữa một cuộc họp trang trọng bỗng mót tiểu tiện mà không thể đi. Trước đấy hình như duy nhất một lần cái cảm giác bất an này cũng đã đến. Láng máng không thể nhớ.

  • MA VĂN KHÁNGKhi những người U Ní ở vùng biên sau mấy tháng trời đông giá, ngồi trong nhà đánh cuốc, sửa dao, đan lát bước ra khỏi căn nhà đất dày kín như cái kén, đặt chiếc vai cày lên cổ con trâu, đi những đường cày đầu tiên, hoặc rủ nhau đi bán công khắp các nơi trong vùng thượng huyện Bát Xát, thì hoa gạo bắt đầu nở.

  • PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!

  • HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm...  Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.

  • NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.

  • VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.