Mưa trên vực thẳm I Mưa, trên vực thẳm, trên trần gian Những chú chim đầu chởm đậu trên kho thóc Trên đỉnh ống khói lang thang của tôi Và rạng đông này nữa, mưa chưa rời chúng tôi. Tôi đã nghe của chị ong vò vẽ đầu tiên thức giấc Và để rồi, hơi ấm ban mai phủ kín con đường, Con đường có những vũng nước lấp lánh Trong lặng yên, nàng ong tìm, không đường, không nẻo Và tôi tin rằng tôi đang ở đó, tôi đang nghe chị ong kia Nhưng rồi, từ tiếng động, hình ảnh rõ dần lên Vậy mà dưới bước chân tôi Con đường không là con đường nữa Riêng chỉ có giấc mơ của tôi về chị ong vò vẽ, về những chú chim đầu chởm, về sương mai. Tôi thích đi dạo lúc rạng đông. Lúc thời gian còn mê ngủ Ngủ trong những hòn than đỏ, mặt áp lên tro tàn. Từ đỉnh căn phòng, trong bình yên, vẫn đều nhịp thở Thân thể tôi hiện dần ra từ bóng tối nhạt nhòa. II Mưa những ban mai mùa hạ, dễ nào quên được, Tiếng vỗ của mưa như gió lạnh đầu mùa, Trên cửa kính của giấc mơ, Vùng vẫy, anh bạn tự hỏi trong tiếng mưa ngoài trời Với đôi tay trần lạnh giá, Còn bạn khác, vẫn ngủ say trong hơi ấm chính mình. (Tiếng nước mưa từng cơn từng cơn, trên mái ngói. Tuôn trước cửa phòng không ngớt Từ ánh sáng, từ trong ngọn sóng triều Bão tố trào dâng Giữa trời rền vang sấm chớp Lan phủ không gian). III Thức dậy, đêm nay Tôi thấy con thuyền tôi bị lật Lửa hầu như tắt lịm, Mái chèo quẫy sóng, lạnh lẽo bốn bề. Và mặt nước chỉ là ánh sáng Còn phía dưới ư? Những thân cây không sắc màu, không rễ, Những thân cây ngổn ngang như giấc mơ, như đá tảng. Ôi giấc mơ, ôi đá tảng - dòng hải lưu làm đôi mắt khép Và đôi mắt mỉm cười trong vòng tay ôm ghì của cát. ĐỖ TRỊNH QUANG dịch từ Les planches courbes của Yves Bonnefoy Gallimard, Mercure de France, 2001 (nguồn: TCSH số 223 - 09 - 2007)
|
JEZIBELl - RM.SHANMUGAM CHETTIAR
L.T.S: Cùng với Blok, Mai-a-cốp-xki, Ê-xê-nhin, Pa-xter-nak... Ma-ri-na Xvê-ta-ê-va (Marina Tsvetaeva 1892 - 1941) là một trong những nhà thơ Nga - Xô Viết lớn nhất của thế kỷ XX. Đường đời của bà là con đường đầy gian truân của một trí thức phải khắc phục nhiều lầm lỗi để đến với chân lý cách mạng. Một trái tim nồng cháy tình yêu Tổ quốc, dân tộc, nhưng Xvê-ta-ê-va mất gần 20 năm sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong ở nước ngoài và trở về đất nước không được bao lâu thì mất.
OCTAVIO PAZ
(Nobel Văn Chương 1990)
Eduardas Megielaitis sinh năm 1919 (đã mất 6/6/1997), Chủ tịch Hội Nhà văn Litva (Liên Xô cũ) từ năm 1959, có tác phẩm được in từ 1934. Anh hùng lao động Liên Xô, Giải thưởng Lê-nin về văn học (năm 1961).
Lép Ôsanhi - Vlađimia Xôkôlôp
LGT: Charles Simic sinh năm 1938 tại Belgrade, Nam Tư. Năm 16 tuổi ông cùng với mẹ sang Mỹ sống với người cha ở New York City. Hiện ông là giáo sư khoa tiếng Anh ở trường Đại học New Hamsphire. Thơ Simic không dễ xếp loại. Một số bài thơ của ông có khuynh hướng siêu thực, siêu hình trong khi các bài khác là những chân dung hiện thực của bạo lực và tuyệt vọng.
Sam Hamill - Kevin Bowen - Martha Collins - Yusef Komunyakaa - Fred Marchant - Lady Borton - Nguyễn Bá Chung - Bruc Weil - Carolyn Forché - Larry Heinemann - George Evans
F.G. Lorca: Nhà thơ Tây Ban Nha, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ, một chiến sĩ chống phát xít đã bị kẻ thù ám hại năm 1938, khi ông vừa tròn 40 tuổi.
Bạn đọc chắc hãy còn nhớ vào tháng 2 năm 2011, Tạp chí Sông Hương đón nhận sự ghé thăm của đoàn Nhà văn Nga, trong đó có nhà thơ Terekhin Vadim.
FREDERICK TURNER
FREDERICK FEIRSTEIN
Jean Amrouche (1906-1962), người An-giê-ri, dạy học ở Tuy-ni-di, viết báo. Có nhiều thi phẩm in ra trước 1940. Chết trước khi An-giê-ri dành được độc lập, trong khi ông vẫn là một trong những người thành tâm và quyết liệt tìm giải pháp cho vấn đề thiết cốt này.
Từ nhiều thế kỷ nay, chúng ta đã quen với chuyện họa thơ Đường. Còn đây là một cuộc họa thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Và là một cuộc họa thơ độc đáo về Bác Hồ kính yêu của chúng ta.
Trong một lần thăm Ang-co, tôi cùng đi với chị Khô Chan dra, một cựu sinh viên văn khoa Đại học Phnôm Pênh. Chị ở trong một gia đình trí thức công chức dưới thời Si-ha-nuc nên hầu hết những người thân đều bị Pôn Pốt sát hại.
L.T.S: Ma-xê-đoan (Nam Tư) là xứ sở thơ mộng của phong cảnh đẹp, của du lịch, hội hè và của thơ, là một cái nôi văn hoá cổ xưa của nhân loại, nằm trên bán đảo Ban-căng, có một cái gì gợi nên một số nét tương đồng với Huế.
L.T.S: “Mẹ và bom nơ-tơ-rôn” là trường ca của nhà thơ Liên Xô nổi tiếng E.Ép-tu-sen-cô. Trường ca được trao giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1984. Xin trân trọng giới thiệu một đoạn trích từ trường ca.
Nhà thơ nữ Ana Blandiana (sinh năm 1942) hiện là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Ru-ma-ni.
Paul Henry là một trong những nhà thơ hàng đầu xứ Wales. Được cố thi sĩ Ursula Askham Fanthorpe diễn tả như “một nhà thơ của nhà thơ”, kết hợp “cảm xúc nhạc của những con chữ với sự tưởng tượng sáng tạo không ngừng nghỉ”, ông đến với thơ qua việc viết lời ca.
PI-MEN PAN-TREN-CƠNhững vật dụng của lính
LTS: Bruce Weigl nhà thơ Mỹ từng là cựu chiến binh tham chiến tại Quảng Trị những năm 1967-1968. Là người chứng kiến những sự thật kinh hoàng trong chiến tranh Việt Nam, ông tìm đến với thơ ca như một sự cứu rỗi linh hồn. Năm 1987, Bruce Weigl lần đầu tiên trở lại Việt Nam và “Tôi không bao giờ tưởng tượng được người Việt Nam lại tiếp đãi mình ân cần như thế”.