Một trung tâm văn hóa không thể vắng bóng các nhà văn hóa nổi tiếng

10:45 15/09/2009
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

2. Khái niệm "CÓ MẶT" mà tôi đề cập ở đây là sự nghiệp của họ được giới thiệu cho lớp hậu sinh vẫn biết quý trọng Tổ tiên Ông Bà và học điều hay lẽ phải từ Tổ tiên Ông Bà trong các:

a/ Nhà Bảo tàng
b/ Nhà trưng bày
c/ Nhà lưu niệm

Trong các Bảo tàng Tổng hợp có thể có người đã được nhắc đến (hoặc lâu nay quên, mà sắp tới cũng có thể sẽ được nhắc đến). Nhưng Bảo tàng Tổng hợp thì ở đâu cũng đã có (đã hấp dẫn, sinh động hay chưa lại là một chuyện khác), là chuyện "làm phong trào" mà các Sở Văn hóa Thông tin rất có kinh nghiệm. Cái mà chúng ta thiếu là sự đi sâu, chuyên đề. Là sức nặng chứ không phải chỉ là chuyện "cắt dán kẻ vẽ". Bởi cuộc đời các vị đó không phải chỉ là của họ và người thân của họ mà đã thuộc về bá tánh. Bởi họ tiêu biểu cho cả một xu hướng, cho một phong trào, thậm chí qua họ chúng ta thấy được cả một giai đoạn lịch sử của quê hương đất nước.

3. Trong bài viết này, tôi chỉ giới hạn kiến nghị trong vòng 10 năm. Cũng có thể tạm gọi là kiến nghị xây dựng "Dự án 10 năm xây dựng các Nhà Bảo tàng, Nhà Trưng bày, Nhà Lưu niệm".

Với khả năng của địa phương, với điều kiện tham gia của gia đình, thân tộc và các đồng nghiệp... tôi cho rằng 2 hình thức b và c (Nhà Trưng bày và Nhà Lưu niệm) sẽ là hình thức hợp lý, rồi theo điều kiện vật chất, con người lẫn kinh nghiệm, các Nhà Trưng bày, Nhà Lưu niệm sẽ không ít cái trở thành Nhà Bảo tàng.

4. Trong dự án này, tôi đề nghị tập trung xây dựng Nhà Trưng bày hoặc Nhà Lưu niệm của các vị có "quê hương khai sinh" tại Thừa Thiên Huế hoặc đã có sự gắn bó đặc biệt với Thừa Thiên Huế sau đây:

+ Tố Hữu
+ Đặng Huy Trứ
+ Ưng Bình Thúc Dạ Thị
+ Phan Bội Châu
+ Thanh Tịnh
+ Tôn Thất Tùng
+ Đặng Văn Ngữ
+ Điềm Phùng Thị (mở rộng)
+ Trịnh Công Sơn
+ Lê Bá Đảng

5. Chắc có người sẽ nói ngay "Gần 30 năm rồi, ngoài các lăng tẩm, thành quách mà Cha ông để lại mới được trùng tu một phần và bước 1 Nhà Trung bày nghệ thuật Điềm Phùng Thị, cả tỉnh này đã xây dựng được cái quái nào về danh nhân đâu mà nay ông đề ra CẢ VẠT trong chỉ mấy năm, ông có nằm mơ không đấy?".

Tôi xin trả lời ngay: Tôi không nằm mơ! Bởi ĐÃ 30 NĂM TRÔI QUA RỒI! 30 năm làm được không đáng gì theo hướng này, hoặc nói một cách "êm dịu" là làm quá ít, chỉ "nằm rung đùi tự hào trên quá khứ cha ông" như chính nhiều người tâm huyết và mến yêu Huế vẫn đau buồn nói với nhau trong tiếng thở dài. Chính vì thế mà tôi không thể đề xuất một kiến nghị ít hơn, cho dù với bản danh sách này, tôi sẽ bị nhiều anh em tâm huyết với văn hóa Huế "vặc" là thiếu, phải thêm ít ra từ 5 đến 7 vị nữa.

Tuy nhiên, tôi cũng đủ tỉnh táo mà biết rằng, NẾU LÀM THEO CÁCH CŨ (Lên phương án, hội thảo về phương án đó, chờ tập thể, chờ Nhà nước duyệt phương án, rồi làm phương án khả thi, rồi chờ kinh phí của Nhà nước, rồi chờ duyệt tiền mặt, rồi chờ bù giá vật liệu biến động... trăm thứ chờ và chờ) thì đến 10 năm cũng đã chắc gì xong một Nhà trưng bày!

Nhưng nếu theo cách làm mới và quyết tâm thì làm được.

6. Cách làm mới mà tôi đề cập ở đây thực ra cũng chẳng có gì là mới vì chính Đảng và Nhà nước cũng đã đề ra rồi. Đó là việc cần xã hội hóa hoạt động văn hóa. Nghĩa là, việc xây dựng các "Nhà" này lại càng cần huy động xã hội vào cùng làm.

Cụ thể, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế CẦN BAN HÀNH MỘT CƠ CHẾ MỚI mà theo đó, tùy tình hình cụ thể của từng nhân vật mà cho phép tiến hành xây dựng theo một trong những cách sau đây:

A/ Nhà nước đầu tư là chủ yếu, có phối hợp với Hội Nghề nghiệp.
B/ Gia đình với Nhà nước hoặc Nhà nước với gia đình (vị trí để trước hoặc sau tương ứng với mức đóng góp nhiều hoặc ít).
C/ Nhà nước cùng tổ chức nước ngoài và Hội Nghề nghiệp.
D/ Tác giả (nếu còn sống hoặc có để lại di chúc đóng góp kinh phí) với Nhà nước và Hội nghề nghiệp.

Để cụ thể hơn, tôi xin được nói rõ hơn suy tính của mình.

Với Tố Hữu: Là một nhà cách mạng, là nhà thơ số một của thơ ca cách mạng Việt Nam, cũng đã có nhiều ý kiến đề nghị xây dựng Bảo tàng của ông tại quê hương Quảng Điền. Tôi lại thấy cần xây Nhà lưu niệm của ông tại Huế, với sự đóng góp:

+ Chủ yếu từ ngân sách Nhà nước.
+ Vận động các văn nghệ sĩ đóng góp các kỷ vật, lưu niệm đã có với ông (thông qua Hội VHNT).

Nhân đây tôi xin nhắc đến việc Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam và Thừa Thiên Huế quyết định xây dựng Công viên, Nhà Lưu niệm và tượng đài Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, người bạn thân của nhà thơ Tố Hữu, tại quê nhà Đại tướng là một quyết định có rất ý nghĩa về chính trị và văn hóa. Tiếc rằng các phác thảo tượng đài mà tôi được xem chưa có tượng đài nào đẹp và đúng "chất" của ông mà tôi biết và ngưỡng mộ.

Về Đặng Huy Trứ: Nhà thơ yêu nước nổi tiếng này lại là người Việt Nam đầu tiên đưa nghề nhiếp ảnh từ phương Tây vào Việt Nam. Nhờ sự quyết tâm của thân tộc, của địa phương Hương Trà và của chính các nghệ sĩ nhiếp ảnh Thừa Thiên Huế cũng như của chính Trung ương Hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam mà Nhà Lưu niệm của ông đã được xây dựng cách đây mấy năm và hàng năm họ tộc cùng với địa phương và anh chị em nghệ sĩ nhiếp ảnh Thừa Thiên Huế cũng như của thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vẫn hội tụ về đây vào dịp giỗ ông. Với Nhà Lưu niệm Đặng Huy Trứ, tôi đề nghị cần NÂNG CẤP.

A/ Nâng cấp ( cả về cơ sở và tư liệu) cho tương xứng với sự nghiệp chính trị, văn học, nhiếp ảnh của ông, thông qua các cuộc vận động quyên góp tiền bạc và tư liệu, trong và ngoài nước.

B/ Tổ chức hành hương hàng năm của giới Nhiếp ảnh cả nước về viếng "cụ khai canh" của nghề mình. Trên cơ sở này dần hình thành một lễ hội của làng quê Đặng Huy Trứ đối với du khách.

Chủ trì dự án này là:

+ Thân tộc, gia đình Đặng Huy Trứ
+ Hội nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam và Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh TTH
+ Địa phương xã và huyện

Với Ưng Bình Thúc Dạ Thị: Với nhà thơ, nhà viết kịch lớn, là "Thi Bá" một thời của thi đàn Việt Nam mà không một tâm hồn Huế nào không cảm phục, kính trọng tấm lòng và sự nghiệp sáng tác của ông, như không ai không biết câu hò "Chiều chiều bên bến Văn Lâu...", thì việc hình thành một bảo tàng thu nhỏ, một nhà lưu niệm, tôi thiết nghĩ không quá khó khăn. Không quá khó khăn  cũng vì chúng ta có "người bạn tri âm" lớn và cũng là người con gái yêu quí của ông, là nữ sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương đã hơn 50 năm trời vẫn gìn giữ, sưu tập... tất cả di cảo, kỷ vật, tác phẩm... của ông; bởi chúng ta có không ít bậc thức giả, tâm thành con cháu Tuy-Lý chắc chắn sẽ nhiệt tâm, năng nổ góp tay vào, nếu có sự "kích thích", động viên bằng cơ chế hợp lý của Nhà nước. Cho dù tạo lại khuôn viên ngày xưa đã bị"chia 5 xẻ 7" cũng không phải là dễ. Nhưng tôi tin, với lòng thành, quyết tâm và cơ chế mới thì sẽ có cách. Việc góp sức góp công lần lượt sẽ là:

+ Gia  đình Nữ sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương
+ Bà con, thân nhân trong phủ Tuy-Lý
+ Nhà nước (việc giải quyết mặt bằng cũ)

Với Phan Bội Châu: Cần có phương án xây dựng Nhà Lưu niệm với nhiều tư liệu được trưng bày và giải quyết vị trí tương xứng để đặt tượng Phan Bội Châu. Dự án này hình như đã được Bảo tàng Tổng hợp đệ trình lên Sở Văn hoá thông tin. Tôi đề nghị làm sao dự án đó nghiêm túc, không cầu toàn. Không chỉ chờ đợi vào Nhà nước. Cần hợp sức giải quyết dự án này là:
+ Bảo tàng tổng hợp Tỉnh
+ Hội Hữu Nghị Việt-Nhật TTH và Nhà văn hoá Việt-Nhật thành phố Huế vận động các tổ chức văn hoá Nhật Bản tài trợ
+ Thân hữu, thân tộc của cụ Phan

Với Thanh Tịnh: Đã không ít lần con trai nhà thơ đề nghị được xây dựng Nhà Lưu niệm Thanh Tịnh... Và có lần anh Ngô Vĩnh Bình nói với tôi rằng, thật tiếc là TTH chưa có nhà lưu niệm anh Thanh Tịnh, chứ nếu có thì ra xin đem "cái phòng độc đáo" của anh ấy ở số 4 Lý Nam Đế về thì qúa hay. Tiếc rằng nay nó đã "biến" tới mấy địa chỉ rồi ! Tuy nhiên, anh cũng cho biết là cũng có cách để "thu hồi", nếu tỉnh có chủ trương. Lực lượng tham gia dự án này là:

+ Gia đình Thanh Tịnh
+ Nhà nước (cho địa điểm và cơ chế)
+ Hội VHNT và vận động tạp chí Văn nghệ Quân đội tham gia

Với Đặng Văn Ngữ: Có một điều rất quý là anh Đặng Nhật Minh và gia dình còn lưu giữ nhiều kỷ vật của giáo sư Đặng Văn Ngữ, cơ sở thờ phụng còn giữ nhiều lễ vật, tư liệu của dòng họ và của giáo sư, lãnh đạo tỉnh cũng đã có những động tác bước đầu giải quyết vấn đề đất đai. Chỉ cần thúc đẩy mạnh hơn, có những bước đi thích hợp và khẩn trương thì việc hình thành Nhà Trưng bày này là trong tầm tay. Như vậy, các chủ dự án này là:

+ Gia đình giáo sư Đặng Văn Ngữ.
+ Nhà nước.
+ Vận động trường Đại học Y khoa Huế và Bệnh viện TW Huế tham gia.

Với Tôn Thất Tùng: Tiếc rằng, với một nhân vật trí thức rất tiêu biểu (về nhiều mặt) như Tôn Thất Tùng (và con trai ông là Tôn Thất Bách), đều đã có những đóng góp to lớn cho nền y học Việt Nam, dự tính làm sao có một Nhà Lưu niệm của ông và gia đình lâu nay vẫn bị "bỏ hoang" như chính khuôn viên khu nhà xưa của gia đình ông đã bị chiếm dụng làm cơ sở sửa chữa ôtô nhiều năm nay!

Trước mắt, tôi đề nghị:

A/ Tỉnh Thừa Thiên Huế cần bàn bạc với Trường Đại học Y khoa Huế và Bệnh viện TW Huế để tổ chức các cuộc gặp gỡ, trao đổi nhằm tìm định hướng cho việc xây dựng Nhà Lưu niệm (có sự tham gia của đại diện gia đình và thân tộc). Nên để Trường ĐHYK làm chủ dự án.

B/ Tỉnh Thừa Thiên Huế có kế hoạch thu hồi khuôn viên nguyên là nhà của gia đình GS Tôn Thất Tùng, để sẽ tiến hành các bước tiếp theo.

Về Điềm Phùng Thị: Thật đáng mừng là việc giải tỏa các hộ cư trú trong khuôn viên Nhà Trưng bày nghệ thuật Điềm Phùng Thị đã xong, hứa hẹn việc triển khai mở rộng diện tích trưng bày ở đây. Nhưng tôi muốn nhắc lại ở đây là dự án lập VƯỜN TƯỢNG ĐIỀM PHÙNG THỊ ở vùng đồi thông cạnh lăng Khải Định mà chính tác giả trước lúc qua đời đã cùng ông Nguyễn Văn Mễ, nguyên Chủ tịch UBND và chúng tôi, sau một buổi chiều đi thực địa các ngọn đồi phía tây Huế đã quyết định chọn lựa. Dự án này đã không chỉ một lần các vị đại sứ Pháp (cũ và mới) đã hứa, nếu được triển khai thì Đại sứ quán Pháp sẽ góp sức, bởi Điềm Phùng Thị là một biểu tượng độc đáo của sự đan xen, hài hòa của hai nền văn hóa Pháp - Việt. Cũng không chỉ một lần, chúng tôi dã phát biểu với lãnh đạo tỉnh rằng các trại điêu khắc quốc tế được tổ chức tại Huế là rất tốt, nhưng các tác giả nước ngoài đến các trại đó khó có ai sánh được với Điềm Phùng Thị và Lê Bá Đảng. Thành thực, tôi không thể hiểu nổi vì sao lại rất vồn vã với những đàn em, đàn học trò mà lại lơi lỏng, mà lơ đãng với những bậc thầy như Điềm Phùng Thị và Lê Bá Đảng?

Dự án này với trách nhiệm của:

+ Thành phố Huế (với sự giao trách nhiệm chính thức của tỉnh Thừa Thiên Huế. Thành phố Huế đã rất có kinh nghiệm và trách nhiệm trong việc xây dựng NTBNTĐPT trước đây).
+ Đại sứ quán Pháp.
+ Khoa Điêu khắc Trường đại học Nghệ thuật Huế.

Với Trịnh Công Sơn: Gia đình và bằng hữu vốn đã có ý định này từ ngày Trịnh Công Sơn qua đời. Dự án này hoàn toàn khả thi với sự tham gia của:

+ Gia đình Trịnh Công Sơn.
+ Sự cho phép của Tỉnh và Tỉnh cần góp phần để có địa điểm đặt Nhà Trưng bày.

Với Lê Bá Đảng: Đây là nhân vật duy nhất còn sống (nhưng cũng đã 84 tuổi rồi). Sự nổi tiếng và độc đáo của ông thì chúng ta đều đã nghe, đã đọc và đã biết. Nhiều người chắc cũng đã thăm triển lãm MÙA XANH MUÔN MỘT của ông bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh trong dịp Festival vừa qua. Cùng thời gian đó, một triển lãm nữa của ông đang diễn ra tại Tokio (Nhật Bản).

Tại Festival 2002, trong một cuộc gặp gỡ sau cùng giữa Lê Bá Đảng và ông Nguyễn Văn Mễ, Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, tại một địa điểm mà Thừa Thiên Huế dự tính giao để xây dựng Trung tâm nghệ thuật Lê Bá Đảng, với sự có mặt của anh Nguyễn Xuân Hoa, Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin và tôi, lúc đó là Giám đốc Sở Ngoại vụ. Tại cuộc gặp đó, Thừa Thiên Huế và Lê Bá Đảng đã thống nhất:

1/ Xây dựng cụm văn hoá - du lịch theo thiết kế của Lê Bá Đảng tại đồi Vọng Cảnh.
2/ Xây dựng Trung tâm nghệ thuật Lê Bá Đảng tại trung tâm thành phố (hoặc không xa trung tâm lắm).

Đây cũng là nơi trưng bày các tác phẩm của Lê Bá Đảng đưa từ Pháp về, vừa là nơi "đào tạo nghề" cho nhiều học viên, để họ có thể sống bằng nghệ thuật và từ đó nhân rộng ra, phát triển lên... góp phần giải quyết công ăn việc làm cho không ít người dân chính từ nghệ thuật Lê Bá Đảng và cũng chính các sản phẩm nghệ thuật đó bảo đảm cho Trung tâm có đủ kinh phí để hoạt động.

Cả hai bên đều hứa quyết tâm HOÀN THÀNH DỰ ÁN TRƯỚC FESTIVAL 2004. Tiếc thay, không hiểu vì sao, toàn bộ dự án ấy đến nay vẫn chỉ là trong ... mơ! Cũng may là trong dịp Festival 2004 chúng ta còn được gặp Lê Bá Đảng qua MÙA XANH MUÔN MỘT. Tôi không đề cập đến lý do không thực hiện được dự án (mà báo chí lúc đó đã đưa tin rất rầm rộ) là do ai. Tôi chỉ nói lên hy vọng của mình, là vào dịp này, tỉnh Thừa Thiên Huế nên cùng tác giả bàn thảo một lần nữa, những việc cần làm và có thể làm, trên cơ sở lòng tin và kính trọng vốn có đối với nhau, để các dự án quan trọng trên đây có thể bắt đầu.

Dự án này với lực lượng chủ lực là:

+ Tỉnh TT. Huế (địa điểm và công sức).
+ Tác giả (tác phẩm và công sức).
+ Hội VHNT tỉnh (tinh thần và công sức).

7. Nếu theo cơ chế mới và theo sự hợp sức mà tôi đã trình bày trên đây, không phải cứ làm xong dự án này rồi mới tới dự án khác như cách làm cũ (làm theo cách này thì 10 năm giỏi lắm cũng chỉ làm được vài cái!) mà có thể ĐỒNG THỜI TIẾN HÀNH nhiều dự án một lúc. Về mặt tổ chức theo dõi, đốc thúc.. có thể có một bộ phận giúp việc nhỏ hoặc một chuyên viên giỏi giúp giám đốc Sở Văn hóa thông tin chỉ đạo, điều hành.

Phải xã hội hóa được như thế, và đó là con đường ngắn nhất, thì các dự án văn hóa như trên mới có cơ may thành hiện thực (ngay Hội VHNT cũng có thể tự tổ chức xây dựng trong khuôn viên của mình Phòng trưng bày các kỷ vật của các văn nghệ sĩ trong 2 cuộc kháng chiến với sự hưởng ứng chắc chắn sẽ nhiệt tình của gần 500 hội viên).

Hãy bắt tay vào làm một việc mà lẽ ra chúng ta đã phải làm 30 năm nay rồi. Vì thực ra, ai mà chẳng biết rằng: Một trung tâm văn hóa lớn như Huế mà "vắng bóng" các nhà văn hóa như chúng ta vừa nhắc đến trên đây thì làm sao gọi là Trung tâm văn hóa cho được!

Huế, mùa thu 2004
TÔ NHUẬN VỸ
(188/10-04)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Gần đây, khi Đảng ta chứng tỏ sự quan tâm của mình đối với đội ngũ trí thức thì trong dư luận cũng đã kịp thời có những phản ứng cộng hưởng. Điều mà chúng tôi lĩnh hội được gồm 3 câu hỏi tưởng chừng như "biết rồi khổ lắm nói mãi" nhưng lại không hẳn thế. Nó vẫn mới, vẫn nóng hổi vì sự tuyệt đối của qui luật vận động cũng như vì tính cập nhật, tính ứng dụng của đời sống. Chúng tôi xin được nêu ra và cùng bàn, cùng trao đổi cả 3 vấn đề.

  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.