Một trong ba trung tâm đào tạo nhân tài của cả nước

14:24 19/04/2012

LÊ CUNG

Kỷ niệm 55 năm thành lập Đại học Huế (1957 - 2012)

Đại Học Huế - Ảnh: internet

1957-2012, Ðại học Huế tròn 55 năm xây dựng và phát triển. 55 năm - một quãng thời gian không dài so với nhiều trường đại học trong khu vực và trên thế giới(1), lại ở vào thời kỳ mà vận mệnh dân tộc đứng trước những thử thách khó khăn, nhất là ở vào các giai đoạn 1963-1975, 1979-1986 và 1990-1991, song dù trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nào, giảng viên và sinh viên Ðại học Huế vẫn nỗ lực vượt qua khó khăn, tranh thủ thuận lợi, từng bước xây dựng Ðại học Huế không ngừng lớn mạnh.

55 năm qua, Ðại học Huế đã cung cấp cho đất nước, trước hết là miền Trung và Tây Nguyên, một đội ngũ cán bộ hầu như đủ mọi ngành của đời sống xã hội cùng với những thành tựu về khoa học - kỹ thuật mang dấu ấn trong việc góp phần nâng cao dân trí, đẩy lùi nghèo nàn, đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển của Ðại học Huế hôm qua, hôm nay và ngày mai.

Giai đoạn 1957-1975, tuy không nhiều, nhưng đội ngũ giảng viên lại thừa tâm huyết, được công tác dưới mái trường đại học đậm "cốt cách quật cường, trầm lặng và chín chắn của phần dân thuộc trung bộ Việt Nam gọi một tên chung là Huế"(2), nên chỉ một thời gian ngắn, Ðại học Huế đã tạo dựng được thế đứng của mình, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp nâng cao dân trí, phát triển văn hóa, văn học, khoa học - kỹ thuật ở miền Trung, Tây Nguyên và cả miền Nam.

"Sản phẩm" của Ðại học Huế là những kỹ sư, bác sĩ, họa sĩ, văn gia, thi sĩ, nhạc sĩ,... tuy số lượng không nhiều, nhưng chắc tay trong nghề nghiệp, họ đã có mặt khắp miền Trung, từ Quảng Trị đến Bình Thuận, lên đến Tây Nguyên và ngay cả giữa lòng Sài Gòn, đông đảo nhất là đội ngũ "kỹ sư tâm hồn", được nhân dân các địa phương nơi họ đang công tác, trân trọng và tôn xưng: "Người thầy xứ Huế".

Trên lĩnh vực chính trị - xã hội, cho dù Mỹ và chính quyền Sài Gòn dùng mọi thủ đoạn cố áp đặt một nền giáo dục phục vụ cho âm mưu đẩy lùi phong trào cách mạng Việt Nam, song giảng viên và sinh viên Ðại học Huế, ở mức độ khác nhau đã nhanh chóng vượt qua những cám dỗ vật chất, những hư quyền danh lợi, hòa nhập vào dòng thác cách mạng của cả nước, tạo dựng được truyền thống yêu nước và cách mạng vô cùng vẻ vang. Việc các khoa trưởng và giảng viên Ðại học Huế đồng loạt từ chức, nghỉ việc để phản đối chính quyền Ngô Ðình Diệm thi hành chính sách kỳ thị tôn giáo trong năm 1963, hoặc họ là lực lượng trụ cột của "Hội đồng nhân dân cứu quốc", tổ chức ly khai chính quyền Sài Gòn tại Huế, trong phong trào chống chính quyền quân sự Nguyễn Khánh (1964),... Có thể kể những gương mặt giảng viên tiêu biểu, góp phần làm rạng danh Viện Ðại học Huế trước 1975 như BS. Lê Khắc Quyến (Khoa trưởng Ðại học Y khoa), BS. Bùi Duy Tâm (Khoa trưởng Ðại học Y khoa), TS. Nguyễn Hữu Trí (Khoa trưởng Ðại học Sư phạm), KS. Tôn Thất Hanh (Khoa trưởng Ðại học Khoa học),...

Nổi bật và mang tính sử thi là sự dấn thân của bao thế hệ sinh viên Huế trước năm 1975 với "những cuộc xuống đường rầm rộ" bất chấp sự đàn áp quyết liệt của bạo quyền, "những đêm không ngủ", phong trào "hát cho đồng bào tôi nghe, nghe đồng bào tôi nói",... Có lúc giảng đường đã trở thành trận địa, bục giảng là nơi lên án kẻ thù, sân trường là điểm "hội quân" để tiến công trực tiếp đối phương,... Họ làm được như vậy là nhờ một lý tưởng sống không hề lay chuyển:

"Vì giải phóng miền Nam,
Thề hy sinh tất cả"
(3).

Và có thấy hết những cám dỗ vật chất, những danh vọng hư quyền mà chính quyền Sài Gòn "dành cho" đội ngũ trí thức, cùng với những đau thương và mất mát nơi ngục tù, chiến trận,... và cả ngay trên đường phố mới nhận thức một cách đầy đủ về ý nghĩa việc dấn thân, việc xếp bút nghiên của sinh viên Huế trong những năm tháng đất nước chưa được độc lập, tự do.

Một điều như vừa là truyền thống, vừa là kinh nghiệm đối với sinh viên Ðại học Huế hôm nay là hầu hết những sinh viên tham gia kháng chiến dù ở nội đô hay thoát ly ra căn cứ, chiến khu hoặc bị giam hãm trong ngục tù đế quốc đều là những sinh viên có học lực giỏi, xuất sắc; có bản lĩnh, có ý chí và dũng khí đấu tranh. Nhờ vậy, nên khi họ đề xướng hoặc phát động đấu tranh vì mục tiêu độc lập, thống nhất đất nước, đã thu hút đông đảo đồng bào và bạn bè nhập cuộc; hoặc trước những nhiệm vụ khó khăn, nặng nề được giao họ không từ chối; hoặc trước ngục tù, tra tấn, kể cả mua chuộc của bạo quyền, họ vẫn kiên trì giữ vững niềm tin vào sự toàn thắng của dân tộc. Và trong cuộc đấu tranh đầy cam go và hết sức ác liệt này, những hy sinh và mất mát là không thể tránh được. Những người con ưu tú như Ngô Kha, Trần Quang Long, Nguyễn Ðức Thuận, Nguyễn Thiết, Huỳnh Sơn Trà, Lê Minh Trường, được xem là những tấm gương tiêu biểu của sinh viên Viện Ðại học Huế trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và là niềm tự hào, kiêu hãnh đối với mọi thế hệ thầy trò Ðại học Huế hôm nay và cả trong tương lai.

Giai đoạn 1975-1994, về cơ bản các trường đại học ở Huế là những đơn vị hoạt động độc lập. Ðây là giai đoạn đất nước khó khăn nhất ở thời hậu chiến và những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Việc xây dựng và phát triển các trường đại học ở Huế, do đó cũng không nằm ngoài những khó khăn chung của đất nước. Biết bao thiếu thốn và hụt hẫng "đến" với các trường đại học ở xứ Huế. Trường lớp, giảng đường, phòng thí nghiệm,... bị hư hỏng, xuống cấp. Tài liệu, giáo trình học tập,... hết sức khan hiếm. Khó khăn nhất là sự thiếu hụt nghiêm trọng về đội ngũ giảng viên. Trong gần một thập niên đầu sau giải phóng, đội ngũ giảng viên hầu hết là mới vào nghề, việc giảng dạy chủ yếu dựa vào nguồn giảng viên thỉnh giảng từ các đại học phía Bắc.

Về mặt đời sống, "có lúc cả thầy trò và cán bộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, phải trồng khoai, trồng sắn, ăn bo bo, sắn độn cơm, thiếu cả giấy màu để vẽ, than sưởi ấm cho mẫu trong ngày đông lạnh giá, thiếu cả giây đàn và nhạc cụ, phòng học tối tăm và dột nát,... Những ngày khắc khoải và lo âu về một ngôi trường với bao chồng chất khó khăn tưởng chừng như không thể nào vượt qua nổi"(4), lao động sản xuất trở thành như một nhiệm vụ thường xuyên của giảng viên và sinh viên các trường đại học. Không chỉ trên đồng ruộng, nơi nhà máy xí nghiệp, có khi sân trường cũng biến thành nơi sản xuất, cung cấp lương thực, thực phẩm dù là rất ít ỏi.

Kể sao cho hết những khó khăn, song đối với thầy trò các trường đại học ở Huế, "niềm tin vẫn được giữ vững". Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ðảng bộ các trường, lại được nuôi dưỡng bằng truyền thống của một đại học "lấy đức làm mục tiêu, lấy trí làm căn bản"(5), giảng viên và sinh viên các trường đại học bằng mọi biện pháp, kiên trì, phấn đấu vượt qua khó khăn, vươn lên hoàn thành nhiệm vụ mà Ðảng và Nhà nước giao phó, đáp ứng yêu cầu cấp bách về việc hàn gắn vết thương chiến tranh mà trách nhiệm trước hết dồn lên vai đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý.

Trong khoảng hơn một thập niên đầu sau giải phóng, những thế hệ sinh viên tốt nghiệp nối tiếp nhau, mang tri thức tỏa ra mọi miền đất nước, công tác và phục vụ trong các cơ quan, bệnh viện, trung tâm và viện nghiên cứu, trường học (kể cả các trường đại học và cao đẳng), hầu hết trong họ, ngày nay hoặc là những nhà giáo dục, những bác sĩ, kỹ sư, nghệ sĩ vững vàng về chuyên môn; hoặc là những nhà quản lý năng động và sáng tạo được xã hội thừa nhận. Ðặc biệt, đội ngũ giảng viên trẻ có mặt ở các trường đại học Huế từ những năm tháng này, với sự dìu dắt cùng với "chính sách ươm mầm" của thế hệ đi trước, đã biết đổi lấy khó khăn bằng nỗ lực nghiên cứu, học tập không mệt mỏi, để hôm nay họ không chỉ trở thành những cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Ðại học Huế và các trường, khoa thành viên, mà quan trọng hơn, họ vừa là những nhà giáo có uy tín trên giảng đường đại học, vừa là những nhà khoa học vững tay, đảm nhận được sứ mệnh đầu đàn trong nghiên cứu, với những công trình khoa học, những kết quả nghiên cứu của họ không chỉ có giá trị trong phạm vi học đường mà còn vươn ra cả nước và quốc tế. Chính đây là yếu tố có ý nghĩa chiến lược trong việc tạo dựng nên truyền thống vẻ vang của Ðại học Huế hôm nay và ngày mai.

Một vấn đề không thể không đề cập ở đây là trong gần hai thập kỷ (1976-1994), tuy là những đơn vị hoạt động độc lập, song các trường đại học ở Huế đã có sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong nhiều hoạt động như về trang thiết bị, phòng thí nghiệm, giảng đường, thư viện, Quan trọng hơn nữa là mối liên hệ gắn kết trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học, hoạt động văn hóa - xã hội… Mặt khác, các trường đại học cùng đứng chân ở Huế, một thành phố giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, một trong những trung tâm văn hóa của cả nước. Tất cả chính là nền tảng vững chắc cho một Ðại học Huế thống nhất và phát triển khi thời cơ đến.

Giai đoạn 1994-2012, với đường lối đổi mới đất nước do Ðảng Cộng sản Việt Nam từ Ðại hội lần thứ VI (12-1986); đồng thời trước xu thế phát triển nền giáo dục đại học quốc tế, Ðại học Huế lại được thành lập (4-4-1994). Ðến nay, trừ Trường Ðại học Ðại cương đã giải thể (1998), Ðại học Huế có 7 trường đại học, 1 Phân hiệu Ðại học Huế tại Quảng Trị; 3 Khoa trực thuộc, 1 Viện và 6 Trung tâm. Ngoài những thuận lợi cơ bản, Ðại học Huế còn gặp không ít khó khăn xét cả mặt khách quan và chủ quan, nhất là ở buổi đầu. Âu đó cũng là quy luật "vạn sự khởi đầu nan". Song vượt lên tất cả, hoạt động của Ðại học Huế ngày càng lớn mạnh và đi vào chiều sâu trên nhiều lĩnh vực.

Về cơ sở vật chất, nếu như trước năm 1975, trừ Tòa Viện trưởng (số 3 Lê Lợi), Trường Ðại học Sư phạm và Trường Ðại học Y khoa, còn hầu hết cơ sở Ðại học Huế đều dưới dạng "mượn tạm". Trong giai đoạn các trường đại học hoạt động độc lập trực thuộc các bộ chủ quản, cơ sở vật chất có bước phát triển, song hết sức chậm chạp, thực tế không đáng là bao. Với 18 năm hoạt động (1994-2012), không gian Ðại học Huế đã được mở rộng khắp thành phố Huế. Những cơ sở cũ như Ðại học Y khoa, Ðại học Sư phạm, Ðại học Khoa học, Ðại học Nông Lâm, Ðại học Nghệ thật, Thư viện Ðại học (nay là Trung tâm Học liệu), được nâng cấp mở rộng hoặc xây dựng lại, khang trang hơn nhiều so với trước. Không chỉ ở Nội thành, cơ sở Ðại học Huế còn lan rộng ra vùng ngoại ô với những công trình như Ðại học Kinh tế, Ðại học Ngoại ngữ, Khoa Du lịch, Trung tâm Quốc phòng, Trung tâm Thi đấu, Khu chuyên gia, Ký túc xá Trường Bia, và cả tận Ðông Hà (Quảng Trị). Tất cả cho thấy tốc độ phát triển về cơ sở vật chất của Ðại học Huế trong giai đoạn 1994-2012 so với trước là rất đáng được trân trọng; chính đây là một trong những yếu tố góp phần nâng tầm Ðại học Huế lên một bước mới trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế.

Về đào tạo, Ðại học Huế cùng với các trường thành viên đã nhạy bén, bắt kịp nhu cầu xã hội, đón đầu được thời cơ. Ðiều này được tỏ rõ qua sự gia tăng nhanh ngành đào tạo, hệ đào tạo (chính quy và phi chính quy), bậc học và số lượng sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh theo học. Tính đến tháng 10-2011, Ðại học Huế có 95 ngành đào tạo đại học; 65 chuyên ngành đào tạo thạc sĩ, 62 chuyên ngành đào tạo bác sĩ chuyên khoa cấp I, chuyên khoa cấp II và bác sĩ nội trú; 25 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ. Lực lượng tham gia đào tạo, ngoài đội ngũ giảng viên tại chỗ, hàng năm Ðại học Huế còn mời gần 300 giảng viên thỉnh giảng có trình độ tiến sĩ trở lên từ các trường đại học, các viện nghiên cứu trong và ngoài nước tham gia giảng dạy hệ chính quy cho mọi bậc học. Riêng đối với Trung tâm Ðào tạo Từ xa, hằng năm có khoảng 1.313 giảng viên từ các trường đại học, cao đẳng trong cả nước được mời tham gia đào tạo. Nét mới trong đào tạo ở Ðại học Huế giai đoạn 1994-2012 còn thể hiện ở chỗ đẩy mạnh liên kết với các đại học với nước ngoài. Cho đến năm 2011, Ðại học Huế đã và đang triển khai 15 chương trình liên kết đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ với các đối tác nước ngoài.

Với tư cách là chủ sở hữu đào tạo, lớp học và giảng đường của Ðại học Huế không dừng lại ở Huế mà còn mở rộng ra khắp các địa phương trong cả nước với các ngành học, bậc học (đại học và sau đại học), các hệ đào tạo khác nhau. Kết quả, chỉ tính bậc Sau đại học, trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, Ðại học Huế đã đào tạo được 96 tiến sĩ, 4.375 Thạc sĩ. Tuy còn khiêm tốn, nhưng so với các giai đoạn trước, nó tỏ rõ sự lớn mạnh của Ðại học Huế nói chung, các trường thành viên nói riêng.

Ðiều cần nhấn mạnh là quy mô đào tạo ngày càng mở rộng về ngành nghề và bậc học cùng với sự gia tăng về số lượng người học, nhưng "sản phẩm" của Ðại học Huế ngày càng được nâng cao về chất lượng. Việc sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh với nhiều hệ đào tạo khác nhau quy tụ về Huế, không chỉ riêng miền Trung và Tây Nguyên mà còn có cả các địa phương miền Bắc hoặc tận đồng bằng sông Cửu Long; và ngược lại sự lan tỏa "tri thức Ðại học Huế" cũng đến khắp mọi miền đất nước, góp sức cùng với nhân dân xây dựng lại đất nước ta "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" đã tỏ rõ vị trí, vai trò của Ðại học Huế trong nền giáo dục đại học nước nhà. Ðược như vậy là nhờ Ban Giám đốc, Ban Giám hiệu các trường và đội ngũ giảng viên luôn coi chất lượng là lẽ sống, là chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và phát triển Ðại học Huế.

Về công tác nghiên cứu khoa học - công nghệ, những thành tựu của Ðại học Huế trong 18 năm qua là không nhỏ. Các hình thức nghiên cứu khoa học đa dạng, phong phú bao gồm các dự án hợp tác quốc tế; các đề tài độc lập cấp nhà nước, cấp bộ trọng điểm; nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên; các công trình nghiên cứu về chuyển giao công nghệ, ứng dụng vào sản xuất và đời sống như về nông học, cải tạo và nâng cao năng suất cây trồng; các công trình nghiên cứu về địa chất, bảo vệ môi trường; nghiên cứu khoa học cơ bản về toán học hiện đại, công nghệ cao, vật lý laser, vật liệu mới, y học hiện đại và y học cổ truyền; nghiên cứu về khoa học xã hội - nhân văn như về lịch sử, tôn giáo, văn hóa, văn học và nghệ thuật; nghiên cứu về khoa học giáo dục và đổi mới nội dung và phương pháp dạy học,...

Ðối với miền Trung và Tây Nguyên, Ðại học Huế luôn đẩy mạnh các hoạt động liên kết, hợp tác nghiên cứu khoa học với nhiều địa phương như Kon Tum, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Quảng Bình,... Ðối với Thừa Thiên Huế, Ðại học Huế có hằng trăm công trình nghiên cứu lớn nhỏ, đủ các lĩnh vực về vùng đất và con người Huế; mặt khác, giảng viên Ðại học Huế có mặt ở nhiều đại học, viện, trung tâm nghiên cứu trong nước và một số đại học danh tiếng ở nước ngoài dưới hình thức thỉnh giảng, hoặc các hội nghị, hội thảo khoa học, hoặc các công trình nghiên cứu, các bài báo khoa học,... Tất cả góp phần quảng bá Ðại học Huế nói riêng và vùng đất cố đô nói chung đối với bạn bè trong nước và quốc tế.

Về hợp tác quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế của Ðảng, Ðại học Huế chủ trương đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các trường đại học trong khu vực và trên thế giới. Nhiều hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế do Ðại học Huế đăng cai hoặc phối hợp với các trường đại học nước ngoài tổ chức, thu hút nhiều nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế tham gia. Các hội thảo quốc tế vừa là diễn đàn để các nhà khoa học và nhà quản lý trao đổi về chuyên môn và những vấn đề thực tiễn đặt ra, vừa tạo điều kiện để Ðại học Huế ký kết nhiều văn bản hợp tác mới cũng như tạo cơ hội cho cán bộ, sinh viên tiếp xúc với những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ của thế giới; đồng thời, việc Ðại học Huế thường xuyên tổ chức xét tặng danh hiệu giáo sư danh dự và tổ chức Festival khoa học, có tác dụng khuyến khích các nhà khoa học quốc tế đóng góp cho hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của Ðại học Huế.

Qua các chương trình, nội dung hợp tác quốc tế, Ðại học Huế đã xây dựng được mối quan hệ với nhiều tổ chức tài trợ, thực hiện được nhiều chương trình đào tạo liên kết; triển khai thành công nhiều dự án hợp tác với một số trường đại học, viện nghiên cứu có uy tín trong khu vực và thế giới. Ðiều không kém quan trọng là qua hợp tác quốc tế, Ðại học Huế có thêm điều kiện bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, giảng viên, cải tiến nội dung và phương pháp dạy học theo chương trình đào tạo của các đại học quốc tế; mở ra khả năng đi tới các chương trình đào tạo mang tầm quốc tế.

Cần phải nói thêm rằng, trong hai giai đoạn trước, hợp tác quốc tế còn mang tính đơn điệu, một chiều. Nếu giai đoạn 1957-1975, hợp tác quốc tế của Viện Ðại học Huế chỉ dừng lại ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai đoạn 1975- 1994, chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa, thì ở giai đoạn này (1994-2012), hợp tác quốc tế của Ðại học Huế mang tính đa chiều, với nội dung phong phú, bao gồm các nước xã hội chủ nghĩa, các nước tư bản chủ nghĩa và các nước thế giới thứ ba. "Công tác hợp tác quốc tế đã thực sự đem lại nguồn lực quan trọng, góp phần đắc lực trong việc thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học lớn, tạo ra các cơ sở vật chất hiện đại, phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học; nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên, cán bộ của Ðại học Huế và các trường thành viên"(6).

Sự hợp lực của các mặt hoạt động trên đây góp phần tích cực cho việc trưởng thành nhanh chóng của đội ngũ giảng viên cả về số lượng và chất lượng. Năm 1997, Ðại học Huế có 1.558 giảng viên, cán bộ và công chức, trong đó có 25 giáo sư, phó giáo sư(7); đến tháng 11-2011, Ðại học Huế có 3.321 giảng viên, cán bộ và công chức và lao động hợp đồng; trong đó có 7 giáo sư, 141 phó giáo sư, 362 tiến sĩ khoa học và tiến sĩ, 1.009 thạc sĩ và bác sĩ chuyên khoa I, chuyên khoa II, 538 giảng viên cao cấp, giảng viên chính, 65 nhà giáo nhân dân và nhà giáo ưu tú. Số giảng viên có trình độ sau đại học chiếm tỉ lệ gần 71,2%.

Tóm lại, trong quá trình 55 năm xây dựng và phát triển (1994-2012), Ðại học Huế đã trải qua 3 giai đoạn khác nhau. Nhưng phải khách quan mà nhận rằng dù ở giai đoạn nào chăng nữa, đối với Ðại học Huế cái khó khăn, thách thức vẫn "lấn át" cái thuận lợi, song "cái khó quyết không bó cái khôn", lớp lớp các thế hệ thầy trò Ðại học Huế nối tiếp nhau vẫn bền chí, nỗ lực phấn đấu vì sự nghiệp giáo dục đại học nước nhà, để Ðại học Huế có được "vóc dáng" như hôm nay.

Kỷ niệm 55 năm thành lập Ðại học Huế là dịp để thầy trò nhìn lại những nỗ lực đã qua, để nhớ lại những năm tháng đấu tranh hào hùng vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; rồi cùng đồng cam cộng khổ chung lưng đấu cật vượt qua những tháng ngày gian nan vất vả của thời hậu chiến; những trăn trở lo toan trong giai đoạn Ðại học Huế được thành lập và đi vào hoạt động nhằm làm tròn vai trò của mình đối với Thừa Thiên Huế, miền Trung và Tây Nguyên, xứng đáng với niềm tin của nhân cả nước và bạn bè quốc tế.

Tự hào về truyền thống là chính đáng, nhưng niềm tự hào đó chỉ có ý nghĩa trọn vẹn là khi truyền thống đó được biến thành hành động cụ thể trong một mục tiêu chung nhất đối với mọi thành viên Ðại học Huế: Xây dựng Ðại học Huế chất lượng cao trong đào tạo, sâu trong nghiên cứu, rộng trong hợp tác quốc tế; giữ vững Ðại học Huế là một trong ba trung tâm đại học lớn của cả nước, như chủ đề của Ðại hội Ðảng bộ Ðại học Huế lần thứ IV (2011) đã chỉ ra: "Nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng bộ, huy động mọi nguồn lực, đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý, xây dựng Ðại học Huế thành Ðại học quốc gia, góp phần xây dựng tỉnh Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương"(8).

L.C
(SH278/4-12)

......................................
1 - Ðại học Sorbonne (Pháp) thành lập năm 1253, Ðại học Harvard (Mỹ) thành lập năm 1636, Ðại học Humbolt (Ðức) thành lập năm 1810,...
2 - Ðại học Huế, số 7, tháng 1-1959, tr. 125-126 (5-6)...
3 - Lê Chưởng, Trên những chặng đường chiến đấu (Hồi ký), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 643.
4 - Trương Bé, "Chiếc nôi của những tài năng nghệ thuật", Tạp chí Huế Xưa và Nay, số 24, 1997.
5 - Tạp chí Ðại học, số 7, tháng 1-1959, tr. 125-126 (5-6).
6 - Nguyễn Văn Toàn, "Ðại học Huế nửa thế kỷ xây dựng và phát triển", Bản tin Ðại học Huế, số 60, tháng 3&4-2007.
7 - Tổng kết hoạt động Công đoàn Ðại học Huế năm học 1996 - 1997.
8 - Báo cáo chính trị Ðại hội Ðảng bộ Ðại học Huế lần thứ IV. Tài liệu đã dẫn.










 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.